Tự Do Ngôn Luận cho VN

October 26, 2010

BỨC THƯ CHUNG KHÔNG GỞI

Filed under: dân chủ,Tôn Giáo,tự do,Vietnam — tdnl @ 4:50 am

VietCatholic News (23 Oct 2010 09:45)

LTT: Đây chỉ là một tài liệu giả tưởng, được hư cấu để chuyển tải một sứ điệp tư riêng của cá nhân. Vì thế, nội dung và chủ đích không liên hệ gì tới Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Trần Khánh Hòa

Đồng bào Việt Nam kính mến,

Anh chị em tín hữu Công Giáo Việt Nam thân yêu,

Chúng tôi, toàn thể các thành viên của HĐGMVN, có mặt cũng như vắng mặt trong cuộc Đại Hội lần thứ XI (từ ngày 4-6.10.2010), xin kính chuyển đến toàn thể quốc dân đồng bào Việt Nam và toàn thể anh chị tín hữu Công Giáo Việt Nam lời chào chúc kính mến và đầy thân ái trong tình thương hiệp nhất huynh đệ của Chúa Kitô.

Lời đầu tiên trong Bức Thư Chung đặc biệt nầy, chúng tôi xin được hiệp lời cùng toàn Dân Chúa kính dâng lên Thiên Chúa lời tri ân cảm tạ vì muôn vạn hồng ân Chúa đã thương ban cho dân tộc và đất nước chúng ta, đặc biệt cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trải qua bao thăng trầm suốt hơn 400 năm kể từ khi cha ông ông chúng ta đón nhận Tin Mừng vẫn tồn tại và không ngừng phát triển mà việc cử hành Năm Thánh 2010 như là một điểm qui chiếu cần thiết và đầy ý nghĩa.

Chúng tôi, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, một cơ cấu mà cách đây đúng 50 năm (24.11.1960), đã được Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan XXIII thiết lập, như một dụng cụ “thích thời và tối lợi” [1]để phục vụ đồng bào và Dân Chúa Việt Nam thân yêu, xin được đồng thanh dâng lên Chúa tâm tình tri ân cảm tạ cùng lòng sám hối ăn năn. Cảm tạ vì quảng đường 50 năm đồng hành cùng Dân tộc và Giáo Hội tại Việt Nam trong tư cách là những chủ chăn để chăm sóc và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của mọi thành phần Dân Chúa; ăn năn sám hối vì bao nhiêu thiếu sót, lỗi lầm mà trong thân phận con người, chúng tôi đã không tránh khỏi, đã khiến làm giảm đi bao nhiêu cơ hội để Dân Chúa được nhờ, Dân tộc được lợi.

Trong lần Đại Hội lần thứ XI quan trọng nầy: cuộc Đại Hội Giám Mục Việt Nam chuẩn bị cho 2 biến cố trọng đại của Năm Thánh 2010: Đại Hội Dân Chúa (cuối tháng 11.2010) và Bế Mạc Năm Thánh (đầu tháng 1.2011), chúng tôi muốn được ngỏ lời với Quốc dân đồng bào và với anh chị em tín hữu Công Giáo Việt Nam những điều hệ trọng đang là mối ưu tư trăn trở của tất cả những ai là những người Việt Nam ái quốc và những tín hữu Công giáo trung thành với căn tính kitô hữu của mình.

1. Trước hết, chúng tôi muốn khẳng định một lần nữa “mệnh lệnh” và “quyền” mà chúng tôi đã lãnh nhận từ Chúa Kitô, đó là: “dạy dỗ mọi dân nước, thánh hóa mọi người trong chân lý và chăn dắt họ” [2].

Vì mang thân phận con người với những giới hạn và bất toàn, chúng tôi rất ý thức rằng: chúng tôi chưa thực thi đến nơi đến chốn mệnh lệnh và quyền đã được Chúa Kitô trao phó; nhất là trong những giai đoạn và thời điểm mà Đất Nước và Giáo Hội cần được soi sáng và định hướng bởi việc thực thi mệnh lệnh và uy quyền nầy. Vì thế, chúng tôi xứng đáng lãnh nhận những lời trách móc và phàn nàn về thái độ “im lặng khó hiểu của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam” đến từ nhiều thành phần trong Dân Chúa và từ những anh chị em thiện chí khác không chia sẻ cùng một niềm tin.

Tuy nhiên, chúng tôi thiết tưởng: sau khi đã lắng nghe và “biện phân” [3] đủ mọi ý kiến và phản ảnh về các vấn đề hệ trọng đến vận mệnh của Đất Nước và Giáo Hội, thời điểm nầy mới thật chín mùi và cần thiết để chúng ta cùng nói lên những quan điểm, tâm tư cùng nguyện vọng chính đáng của những người công dân Việt Nam ái quốc và của những tín hữu Công Giáo Việt Nam trưởng thành và trách nhiệm.

2. Quan điểm và nguyện vọng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trước các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến sự tồn vong và phát triển của Tổ Quốc.

Đại diện cho cộng đồng tín hữu Công Giáo Việt Nam và liên đới với mọi thành phần công dân Việt Nam trong và ngoài nước, những người đang có chung một ước nguyện và thiện chí xây dựng một đất nước Việt Nam phồn vinh, dân chủ và độc lập, chúng tôi, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tuyên bố:

a/. Đã đến lúc Đất nước Việt Nam cần một thể chế chính trị đa nguyên dân chủ, thể hiện ý chí, ý muốn và nguyện vọng của toàn dân tộc. Chỉ có thể chế nầy mới tạo được một guồng máy lãnh đạo hiệu quả, đẩy lùi tệ hại tham nhũng, tập họp sức mạnh của toàn dân, thoát khỏi áp lực của ngoại bang, gìn giữ sự tồn vong và bảo đảm sự phát triển dài lâu cho Tổ Quốc. Một thể chể chế chính trị độc tài-đảng trị sẽ dẫn Tổ Quốc đến chỗ lầm than, lòng người ly tán, tham nhũng hoành hành và khiếp nhược trước áp lực của ngoại bang.

b/. Đã đến lúc xã hội Việt Nam cần một bầu khí tự do, trong sáng, cởi mở, không bị trói buộc bởi một ý thức hệ, một chủ thuyết hay một tín ngưỡng tôn giáo nào. Hãy trả lại cho môi trường giáo dục-học đường bầu khí lành mạnh, vui tươi, hướng thiện và bồi đắp toàn diện con người mang bản sắc dân tộc và tiếp thu chọn lọc những tiến bộ và văn minh của thế giới. Hỗ trợ và tạo điều kiện để các tôn giáo phát triển, xích lại gần nhau và cùng tích cực đóng góp vào thiện ích chung. Đưa ý thức hệ Mác-Lê, tư tưởng Bác Hồ vào đúng vị trí trong kho tàng những đóng góp quý báu của tư tưởng nhân loại để tham khảo chứ không phải để áp đặt lên toàn bộ sinh hoạt chính trị-xã hội.

c/. Đã đến lúc người dân Việt Nam cần được hưởng và thực thi những quyền tối thượng của con người đã được nêu trong Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam hôm nay, quyền được phát biểu và bảy tỏ lập trường, chính kiến, ý kiến phản biện… phải được tôn trọng. Phải trả tự do cho những người thành tâm thiện chí tranh đấu cho lẽ phải, dân chủ, nhân quyền và bênh vực độc lập chủ quyền cho Đất Nước. Văn hóa, văn học, báo chí, sách vở…chỉ có thể phát triển lành mạnh, đúng hướng trong một môi trường xã hội cởi mở, khoan dung, tự do và dân chủ.

d/. Đã đến lúc môi trường sinh thái của Đất Nước cần được chăm sóc và bảo vệ nghiêm túc. Dừng lại tức khắc những dự án khai thác mang nguy cơ hủy hoại, tàn phá môi trường, đe dọa sự sống, gây hậu quả thiên tai và đại họa cho các thế hệ tương lai…(Như dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, các dự án thủy lợi bất hợp lý, dự án điện hạt nhân không cần thiết…). Cùng với việc bảo vệ thiên nhiên, môi trường, đó là việc bảo vệ chăm sóc đời sống của nông dân và công nhân lao động, môi trường định cư và sinh kế cho các đồng bào dân tộc thiểu số. Bất cứ chương trình qui hoạch nào cũng phải nhắm đến lợi ích ưu tiên cho người nghèo và sự hưởng dụng công bình tài nguyên, lợi tức trong xã hội.

e/. Đã đến lúc mạnh mẽ khẳng định chủ quyền và cương quyết bảo vệ hiệu quả lãnh địa, lãnh hải của Tổ Quốc. Quyền lợi và sự tồn vong của Đất Nước, Dân Tộc phải vượt lên mọi mưu đồ quyền lợi của phe đảng và những âm mưu chính trị mang tính ý thức hệ hay đảng phái. Quân đội là sức mạnh của dân tộc và có mục tiêu bảo vệ Đất Nước khỏi ngoại xâm chứ không bao giờ trở thành lực lượng bao che cho sự lộng quyền của phe đảng chính trị. Cần phát huy sức mạnh và sự tự hào dân tộc cho giới trẻ, học sinh, sinh viên, phát triển công nghệ quốc phòng hợp lý, song song với một nền ngoại giao khôn ngoan và uyển chuyển, tranh thủ sự tín nhiệm và hỗ trợ của mọi quốc gia và tổ chức quốc tế.

Khi tuyên bố 5 điều trên, Hội Đồng Giám Mục Việt nam muốn thể hiện cụ thể và tích cực tinh thần đồng hành và hội nhập của Giáo Hội theo đúng giáo huấn của Công Đồng Vatican II[4], theo tinh thần của bức Thư Chung 1980[5] của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và nhất là theo định hướng của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trong thông điệp xã hội Caritas in veritate mới được ban hành ngày 7.7.2009:

“Giáo hội không đưa ra những giải pháp kỹ thuật [10] và cũng không đòi hỏi “nhúng tay vào chính trị của Nhà Nước bằng bất cứ cách nào” [11]. Dù vậy, Giáo hội phải chu toàn trong mọi thời gian và mọi hoàn cảnh sứ mạng phục vụ chân lý nhằm xây dựng một xã hội xứng với con người, với phẩm giá và ơn gọi của họ.”[6]

3. Định hướng mục vụ cho Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam

Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam đã khai mạc Năm Thánh 2010 vào ngày 24.11.2009 để long trọng mừng hai biến cố: 350 năm thành lập hai giáo phận Tông Tòa đầu tiên tại Việt nam (1659-2009) và 50 năm thành lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam (1960-2010). Và như vậy, cộng đoàn Dân Chúa Việt Nam đã đi gần tới cuối chặng đường Năm Thánh với hai biến cố quan trọng sắp được cử hành: Đại Hội Dân Chúa tại thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 21-25.11.2010 và đại lễ Bế Mạc năm Thánh là Trung Tâm Đức Mẹ La Vang từ ngày 4-6.1.2011.

Cùng với mọi thành phần tín hữu Công Giáo Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chúng tôi hy vọng rằng, từ kết quả của Năm Thánh, Giáo Hội Việt nam sẽ tìm ra những định hướng mục vụ đúng đắn và thích hợp cho cuộc hành trình sống đạo của những tháng ngày tiếp theo.

Như vậy, để có được những kết quả thiêng liêng và mục vụ như lòng Chúa mong muốn hầu đáp ứng các yêu cầu và khát vọng của mọi thành phần trong và ngoài Giáo Hội, cũng như để góp phần xây dựng một Đất Nước Việt Nam giàu mạnh, một Giáo Hội Việt Nam năng động trưởng thành, điều cần thiết hôm nay và lúc nầy đó chính là:

a/. Sự nỗ lực của tất cả chúng ta, các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và mọi thành phần Dân Chúa, cải biến cuộc sống cho càng ngày nên giống Chúa Kitô, đặc biệt trong đời sống cầu nguyện, khó nghèo và bác ái,[7] để như lời khuyến dụ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong Sứ điệp gửi Đức cha Chủ tịch HĐGMVN nhân dịp Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam:

“…nhằm mang tới cho toàn thể xã hội Việt Nam những giá trị Phúc Âm như bác ái, chân lý, công bằng và ngay thẳng. Nếu chúng ta sống các giá trị này theo gương Chúa Kitô, thì chúng sẽ mang một chiều kích mới mẻ, vượt xa hơn ý nghĩa luân lý theo truyền thống như người ta thường hiểu, khi mà các giá trị ấy bén rễ sâu vào Thiên Chúa là Đấng luôn ước mong điều thiện hảo cho mọi người và muốn cho mọi người được hạnh phúc.”[8]

b/. Tích cực tham gia xây dựng Giáo Hội trong tinh thần trách nhiệm và khoan dung bằng những việc làm cụ thể, những ý kiến xây dựng, những đóng góp quảng đại đáp ứng mọi yêu cầu và mọi sinh hoạt của Giáo Hội Việt Nam. Cuộc Đại Hội Dân Chúa sắp tới sẽ là một cơ hội thuận lợi và thích hợp để tất cả mọi thành phần Dân Chúa thể hiện chiều kích tham gia và hiệp thông như định hướng và ước nguyện của Năm Thánh 2010. Đặc biệt, chúng tôi sẵn sàng đón nhận và lắng nghe những ý kiến góp ý của anh chị em về cơ cấu tổ chức, cách điều hành và hoạt động của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam để trong những ngày sắp tới Hội Đồng Giám Mục Nam có được một cơ cấu tổ chức tốt hơn, một cách điều hành linh hoạt hơn và một chương trình làm việc năng động và hiệu quả hơn. Trong dịp nầy, chúng tôi cũng xin thông báo cùng anh chị em một vài thay đổi nhỏ về nhân sự trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (như danh sách được đính kèm).

c/. Trong khi Bức Thư Chung nầy được gởi đến anh chị em thì cùng lức một số tỉnh Miền Trung thân yêu như Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tỉnh, Nghệ An đang đối diện với thiên tai lũ lụt mang theo những thiệt hại to lớn về nhân mạng, nhà cửa, mùa màng. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam xin được chia sẻ với mỗi gia đình và từng nạn nhân nổi đau thiệt hại và mất mát to lớn; đồng thời sẽ điều động và phối hợp với các Tòa Giám Mục, cùng với tổ chức Caritas của các giáo phận đề xuất các phương án cứu trợ cụ thể.

Tuy nhiên, trong giữa cơn gian nan thử thách, niềm tin luôn dạy chúng ta phải vững lòng cậy trông nơi tình thương Thiên Chúa. Đó là cách sống đã trở thành chứng từ sống động nơi con người của Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Vị Tôi Tớ Chúa sẽ được Tòa Thánh chính thức mở án phong Chân Phước vào ngày 22.10.2010. Chúng ta vui mừng cảm tạ hồng ân bao la Thiên Chúa.

Kính thưa toàn thể đồng bào và cộng đồng Dân Chúa Việt Nam,

Trước khi kết thúc bức Thư chung của Đại Hội lần thứ XI nầy, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chúng tôi một lần nữa muốn minh định rằng: sứ mệnh rao truyền chân lý Phúc Âm và hướng dẫn Dân Chúa sống phù hợp với Tin Mừng đó chính là “mệnh lệnh” và “quyền” mà chúng tôi được lãnh nhận từ nơi Chúa Kitô. Cho dù các văn bản định hướng có khác nhau tùy theo những yêu cầu cấp thiết của con người và của Hội Thánh, nhưng nội dung và chủ đích cơ bản vẫn như lời chỉ dẫn của Sắc Lệnh Nhiệm Vụ Giám Mục của Công Đồng Vatican II:

« Các Ngài phải trình bày giáo thuyết Kitô giáo một cách thích hợp với những nhu cầu của thời đại, nghĩa là đáp ứng những khó khăn và những vấn đề đang làm cho mọi người xao động và khắc khoải nhất. Các ngài cũng phải coi sóc giáo thuyết đó bằng cách dạy cho chính các tín hữu biết bênh vực và phổ biến nó. Trong việc giảng truyền giáo thuyết này, các Ngài phải tỏ lòng ân cần từ mẫu của Giáo Hội đối với hết mọi người, tín hữu cũng như lương dân, và phải đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ, những kẻ hèn kém, mà Chúa đã sai các Ngài rao giảng Phúc Âm cho họ. »[9]

Chúng tôi cũng lượng giá rằng: nội dung bức Thư Chung nầy có thể sẽ làm dị ứng cho một số đối tượng, nhất là đối với chính quyền dân sự trong thể chế chính trị độc tài đảng trị của Việt nam hiện nay, một thể chế luôn bóp ngặt mọi tư tưởng và ý kiến khác biệt để biến tất cả thành một công cụ phục vụ cơ cấu độc tài đó. Tuy nhiên, chúng tôi muốn lặp lại chính lập trường của Giáo Hội Công Giáo được minh thị trong Sắc Lệnh có liên quan đến chính sứ mệnh của chúng tôi như sau:

« Trong việc chu toàn nhiệm vụ tông đồ nhằm cứu rỗi các linh hồn, các Giám Mục tự mình được hưởng quyền tự do đầy đủ và hoàn toàn, cũng như quyền độc lập đối với bất cứ quyền hành dân sự nào. Vì thế, không được phép trực tiếp hay gián tiếp ngăn trở việc thi hành nhiệm vụ thuộc phạm vi Giáo Hội của các ngài, hoặc không cho các ngài tự do liên lạc với Tòa Thánh, với những Thẩm Quyền khác trong Giáo Hội và với những kẻ thuộc quyền. »[10]

Với một chính quyền dân sự chính đáng và hợp pháp, nhiệm vụ của chúng tôi chính là cọng tác và xây dựng đồng thời hướng dẫn Dân Chúa thi hành nhiệm vụ công dân cách ý thức và trách nhiệm.

« Thực ra, các Chủ Chăn Thánh, trong khi chuyên tâm săn sóc việc thiêng liêng cho đoàn chiên, thực sự cũng lo đến công việc thăng tiến và nền thịnh vượng của xã hội trần thế, bằng cách cộng tác hữu hiệu với các chính quyền dân sự để thực hiện mục đích trên trong phạm vi chức vụ và hợp với cương vị Giám Mục; và bằng cách nhắn nhủ đoàn chiên vâng phục các luật lệ chính đáng và tôn trọng các quyền bính hợp pháp. »[11]

Riêng đối với anh chị em trong gia đình Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam, xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện để Hội Đồng Giám Mục Việt Nam luôn là một khối duy nhất, là dụng cụ hữu hiệu và dấu chỉ cụ thể cho mối hiệp thông giữa lòng Giáo Hội Việt Nam và với Giáo Hội hoàn vũ. Xin cầu nguyện cho mỗi giám mục chúng tôi mỗi ngày trở nên thánh thiện hơn để luôn xứng đáng là những Tông Đồ của Chúa Kitô trong thiên niên kỷ mới.

Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.

BC: Vì bức thư nầy được tìm thấy trong thùng rác của một Tòa Giám Mục dưới dạng viết tay, nên không thấy có chữ ký của vị giám mục nào.

Trần Khánh Hòa

——————————————————————————–

[1] Tông Hiến “Venerabilium Nostrorum” của ĐGH Gioan XXIII về việc thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam.

[2] Sắc lệnh về Nhiệm vụ của Giám Mục trong Giáo Hội (CHRISTUS DOMINUS), số 2.

[3] Diễn từ chào mừng Đức Cha Nhơn nhậm chức Phó Tổng Giám Mục Hà Nội của Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh ngày 7.5.2010

[4] Hiến chế “Vui Mừng và Hy vọng” của Công Đồng Vatican II

[5] Thư chung 1980: Đồng hành cùng Dân Tộc.

[6] Thông điệp Caritas in veritate của ĐGH Bênêđictô XVI, số 9

[7] Bài viết của ĐGM Phêrô Bùi Tuần trên báo CG & DT số 1780: “Truyền giáo tại Việt Nam hôm nay”.

[8] Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI gửi Đức cha Chủ tịch HĐGMVN nhân dịp Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam.

[9] Sắc lệnh về Nhiệm vụ của Giám Mục trong Giáo Hội (CHRISTUS DOMINUS), số 13.

[10] Sắc lệnh về Nhiệm vụ của Giám Mục trong Giáo Hội (CHRISTUS DOMINUS), số 19.

[11] Sắc lệnh về Nhiệm vụ của Giám Mục trong Giáo Hội (CHRISTUS DOMINUS), số 19.
Trần Khánh Hòa

January 16, 2009

CỜ VÀNG LÀ GÌ ?

Filed under: dân chủ,tự do,Vietnam — tdnl @ 7:33 pm

Hơn nửa thế kỉ đã trôi qua kể từ khi lá cờ vàng tượng trương cho nền chính trị tự do dân chủ của người Việt ra đời trên một nửa nước Việt Nam đau thương. Hơn ba mươi năm đã trôi qua kể từ khi chế độ đó bị những người cộng sản gian manh làm sụp đổ. Đến hôm nay mọi sự đã sáng rõ: Nền dân chủ dân tộc mà Tổng Thống Ngô Đình Diệm xây dựng là một dường hướng đúng. Đúng đến độ mà cộng sản ngày nay muốn tồn tại phải tìm cách ứng dụng các nguyên lý của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã đưa ra cho nền đệ nhất cộng hoà Việt Nam, trong một chừng mực nào đó của chế độ cộng sản.

Chế độ đệ nhất và đệ nhị cộng hoà của người dân nước Việt đã đi vào lịch sử với bao nhiêu “tai tiếng” do những cá nhân, hay phe nhóm ngu dốt thiển cận, biết một mà không biết hai… Vô tình giúp đỡ việt gian cộng sản ám sát nền cộng hoà rồi nhuộm máu trên toàn cõi Việt Nam. Nhưng dù tai tiếng thế nào thì đến hôm nay rõ ràng con đường cộng hoà mà họ theo đuổi là đúng. So với toàn cõi Á Châu khi đó họ là nền cộng hoà tiên phong. Giả sử người dân nước Việt giữ được nền cộng hoà từ khi đó, thì hôm nay, Việt Nam sẽ là cường quốc khu vực, chứ không phải là một nhục quốc khu vực có tên là cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Cờ đỏ sao vàng của việt gian cộng sản là gì? Nó là biểu tượng cho cái gì? Cái đó thực tiễn hôm nay và ánh sáng chân lý đã phơi bày như thế nào?… Có lẽ một người dù bị mù chỉ cần nghe và biết phân tích cũng ngộ ra được. Không bàn đến những mưu sâu kế độc của cộng sản việt nam trong việc hạ bệ cờ vàng, trưng bày cờ đỏ cùng ảnh tượng hồ chí minh… Chỉ xin nói đến những người mang dòng máu Việt mà xem nhẹ, hay bàng quang bỏ mặc, hoặc là vô tình giúp đỡ việt gian cộng sản trong cuộc chiến này…

Bản thân một lá cờ sẽ không có ý nghĩa gì, hoặc chỉ là vật trang trí… Nếu như nó không gắn với các sự kiện lớn lao … Mà con người phải đổ máu vì sự kiện đó. Lá cờ vàng, biểu tượng cho nền cộng hoà – sự lựa chọn đúng đắn, rõ ràng là chính nghĩa, cùng với bao nhiêu là máu đào của người công chính, máu của người vô tội, máu của người bị lừa dối… Vậy mà có kẻ không phải là cộng sản vẫn ngu muội không nhận ra, vô tình mà xúc phạm đến một biểu tượng của sự lựa chọn đúng đắn, xúc phạm đến vong hồn của bao nhiêu chiến sĩ và máu người công chính… Chính sự vô tình đó đã một lần nữa giúp đỡ việt gian cộng sản. Hậu quả của sự “giúp đỡ” này là thế nào, xin hãy đọc lại lịch sử để được biết.

Người cộng sản không phải không biết tất cả những điều nêu trên. Nhưng vì con đường nó đã chọn và tội ác nó đang mang… Làm cho nó phải hành động như thế. Hành vi khách quan phù hợp với ý chí chủ quan của cộng sản. Đồng thời cộng sản triệt để lợi dụng nền dân chủ của các quốc gia văn minh để trưng bày biểu tượng của nó. Cái biểu tượng của nó được bày ra trên quốc gia khác, đối với dân tộc khác thì chẳng có ý nghĩa gì, hoặc cùng lắm cũng chỉ là một vật trang trí… Thậm chí việc làm này của việt gian cộng sản, còn quảng bá cho nền văn minh, dân chủ tự do của quốc gia dân tộc nó đang mượn đất trưng bày… Nhưng đối với người Việt, dù là quốc tịch khác há không có tự trọng hay sao mà vô tình rước cờ cộng sản với tượng hồ chí minh ra trưng bày ngay trước cộng đồng người Việt? Há không có lương tâm hay sao mà im lặng coi như việc của người khác mình không liên can? Tại sao cộng sản nó không mang tượng mang cờ của nó ra trưng bày trong hoang mạc? Ý chí chủ quan của người Việt công chính là gì mà lại không thể phù hợp với hành vi khách quan của mình ???

Chao ôi ! Sao mà thấy thương Tổng Thống Ngô Đình Diệm cùng các bậc tiền nhân phải tranh đấu với cộng sản trong nỗi cô đơn, và sự vô tình của số không nhỏ người Việt… Xin hãy giữ lấy ngọn cờ vàng để bảo vệ sự lựa chọn đúng đắn của tiền nhân. Hãy bảo vệ cờ vàng không bị hoen ố bởi bọn cộng sản man ri, và đám người “vô ý” giúp đỡ cộng sản. Chính sự “vô ý làm chết người” mới gây ra hoạ mất nước không thể chống đỡ.

Phóng viên Vietcatholic riêng tặng Vietnamexodus 16/01/2009

Free Image Hosting at www.ImageShack.us

Mộ Tổng Thống Ngô Đình Diệm khi tôi đi viếng nhân ngày giỗ của Ông

December 10, 2008

HIỂU TẠI SAO NGƯỜI GỐC VIỆT CHỐNG CỘNG

Filed under: dân chủ,tự do,Vietnam — tdnl @ 9:46 pm
Tags: ,

Vi Anh
(Tặng ba con trai của Ba)

Đài truyền hình ABC của Uùc ngày 12 tháng 11 năm 2008 chiếu một phóng sự nước ngoài về Thuyền Nhân VN vào. Đài CNN của Mỹ cũng phổ biến. Và Đài Phát Thanh Á châu Tự do cũng phát một cuộc phỏng vấn, có âm chứng, có hình tài liệu, “Câu chuyện cảm động về con tàu mang số hiệu MT065”. Một lần nữa cả thế giới hiểu thêm phong trào Thuyền Nhân VN, hiểu thêm tại sao người gốc Việt chống Cộng.

Những người Việt dùng thuyền nan vượt đại dương để tỵ nạn CS và tìm tự do. Phong trào đã làm lương tâm Nhân Loại chấn động, Liên Hiệp Quốc ra tay sắp xếp cứu vớt và tổ chức định cư ở các nước. Cho đến bây giờ Liên Hiệp Quốc chỉ biết người Việt đến bến bờ tự do được khoảng một triệu nhưng chưa biết chính xác bao nhiêu đã chết trên biển cả, rừng sâu, hay tại các đảo chờ các nước thứ ba nhận. Chữ Anh thêm một chữ mới boatpeople.

Tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân, một số người tình nguyện cùng với Anh Trần Đông ở Úc đang gia công sưu khảo. “Câu chuyện cảm động về con tàu mang số hiệu MT065” của Đài Phát Thanh Mỹ, phóng sự truyền hình trên ABC của Uùc và CNN của Mỹ là một trong một ngàn lẻ một chuyện thương tâm của cuộc hành trình đầy gian lao, khổ sở, chết chóc đó. Xem qua khán thính giả các nước sẽ hiểu thêm lý do người Việt định cư ở hải ngoại, người gốc Việt ờ Mỹ, Canada, Úc, Pháp, Anh, Nhựt, trên 80 nước, tại sao chống Cộng.

Dân tộc VN vốn là một dân tộc khá thuần nhứt, nặng tình quê cha đất tổ, cuộc sống vật chất nhờ thiên nhiên ưu đãi, lúa gạo dồi dào, khí hậu nhiệt đới nhưng ôn hòa. Bỏ xứ ra đi ra khỏi nước nhà rất xa, cả triệu người như vậy là một cực chẳng đã, một chẳng đặng đừng, một hi hữu trong lịch sử Việt. Dân Việt Nam có Nam Tiến đôi ba lần nhưng chỉ rời Thăng Long đi mở nước, rời Đèo Ngang để mở rộng cõi bờ, hay di cư tìm tự do ở Miền Nam.Tất cả những di chuyển đó hoàn toàn còn trong nước nhà VN. Chỉ có phong trào Thuyền Nhân, tức vượt biên bằng thuyền để tỵ nạn CS, là ra đi không mong trở lại, đi xa, đi khỏi nước nhà VN, đi luôn, chọn quê hương, xứ sở mới, nhập tịch công dân mới.

Nhìn những hình ảnh , chắc chắn nhân dân và chánh quyền các nước trên thế giới không có thể tưởng chuyện ấy lại có thể xảy ra. Nhưng thực sự đã xảy ra rõ rệt. Thuyền nan giữa gió to sóng lớn của đại dương. Những người Việt, già trẻ bé lớn, nam phụ lão ấu đều có cả. Hiểm nguy hơn tàu Mayflower của dân Pilgrims vì ngoài gian nguy sóng gió, còn có mối nguy CS, mối nguy cướp Thái Lan, Mã Lai, nhà cầm quyền các nước xung quanh VN sợ trách nhiệm không cho cặp bến. Phải có một động lực mạnh ghê gớm lắm mới bất chấp gian nguy, hiểm nghèo, chết chóc để làm một chuyến đi thừa chết thiếu sống như vậy. CS Hà nộâi phải độc ác lắm đối với người Việt Nam Cộng Hòa, CS Hà nội phải độc tài lắm với đồng bào nên người Việt mới thà chết sướng hơn, tìm sự sống trong cái chết, bỏ trốn, tỵ nạn CS như vậy.

Nhìn những gương mặt hốc hác, những đôi mắt tuyệt vọng, những bàn tay bám viú vào be thuyền giữa gió to sóng lớn của đại dương, người ta hiểu đây là những người dũng cảm, yêu tự do lắm mới dám phiêu lưu thà tự do hay là chết như vậy. 1 triệu người sống sót đã chứng minh sau khi đến được bến bờ tư do trên các nước định cư. Kỹ sư, bác sĩ, luật sư gốc Việt trong cộng đồng Việt tỷ lệ rất cao. Gia đình nào cũng có người đậu đại học, tỷ lệ không thua người Mỹ Trắùng ở Mỹ là nơi nền giáo dục khoa học kỹ thuất rất cao. Nhiều ngưòi Việt thuyền nhân đã thành khoa học gia hàng đầu về bom của Bộ Quốc Phòng, thứ trưởng cho Bô Tư Pháp. Số người gốc Việt kinh doanh ăn nên làm ra bạc triệu đếm không xuề. Số người làm chánh trị tham chánh dưới hình thức dân cử của chánh quyền địa phương nơi có cộng đồng Việt ở Uùc, Anh, Pháp, Mỹ không ít. Có người đã có mặt trên ngành nghệ thuật vẽ kiểu y phục, viết văn, làm truyền thồng đại chúng bằng ngôn ngữ của nước định cư, một việc chen chân rất khó, mà vẫn có.

Quan trọng nhứt, 33 năm tỵ nạn CS, 33 năm định cư nơi quê hương mới là 33 năm trường kỳ tranh đấu cho tư do, dân chủ, nhân quyền VN. Quốc tế vận của người Việt Hải ngoại rất hữu hiệu và lớn lao. Vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền VN đã đi vào Quốc Hội Liên Âụ, Mỹ, Canada và Uùc. Quốc Kỳ VN được nhiều tiểu bang, nhiều thành phố thừa nhận, dồn cờ CS Hà nội rú rú trong hai toà đại sứ và tổng lãnh sư thôi, Nếu thời VN Cộng hòa chỉ cần có 1 phần ngàn quốc tế vận như vậy thì còn lâu CS Hà nội mới có thể chiếm được VNCH, cào bằng kinh tế, chánh trị, văn hoá của Miền Nam từ Bến Hải đến Cà mau.

Những điều trên là những bằng cớ sống để chánh quyền và nhân dân các nước tiền tiến thấy tự do, dân chủ là điều kiện căn bản. Vì rõ rệt từ những người đồng trang lứa ở VN, không có tự do, dân chủ nên thiếu ăn, thiếu học, chậm tiến đến mức thảm thương. Và nhìn lại những hình ảnh những trẻ em trên tàu, những em đến được bến bờ tư do thành đạt như đã thấy mà đau thương, tiếc uổng cho những em đã bỏ mình trên biển cả. Đó là tất cả một sự mất mát lớn, mà chánh phạm, đồng phạm là CS Hà nội, chớ không ai vào đó cả. Họ ác, họ độc quá nên người Việt già trẻ bé lớn mới trốn đi, tỵ nạn CS. Theo phép tính nhẫm thông thường, số trẻ em phải chết nhiều hơn người lớn, vì sức yếu, chưa quen thoát hiểm mưu sinh. Có người nói nếu thuyền nhân đến được bến bờ tư do kiểm kê được một triệu người thí ít nhứt cũng chết bằng con số đó, con số chưa và không thể kiêm kê được. Dù vậy chắc chắn số trẻ em chết chiếm tỷ lê cao nhứt. Trong đó nếu được sống sẽ có những nhà kinh doanh giỏi, những luật sư, kỹ sư, bác sĩ những khoa học gia, những dân cử giỏi không thua lớp người Việt trẻ đang thành đạt ở hải ngoại bây giờ.

Ai đã giết những đầu xanh vô tội này? Chánh phạm và đông phạm vẫn là CS Hà Nội. CS quá độc quá ác làm ngưòi dân phải đi với con cháu dù biết vượt biên bằng thuyền là thừa chết thiếu sống. CS bắt, CS rượt, CS bắn, CS bắt trên đường ra hải phận quốc tế. CSï tổ chức cho vượt biên bán chánh thức, thu tiền rồi cho nổ tàu như ở Thanh Đa. Họ giả dạng cưóp Thái Lan, bắt ghe ngoài biển, cướp hết tiền bạc vòng vàng, hãm hiếp phụ nữ và trẻ em, rồi phá máy, đục tàu cho chết hết để phi tang. Nước biển Đông không sao rửa được tội của CS Hà nội. Hàng vạn ngôi mộ trên các đảo là vết tích tội ác của CS. Hàng muôn oan hồn uổng tử trên biển Đông còn kêu án CS, còn gào thét đòi mạng với CS, như sóng gió gào thét ngoài biển VN.

Không thể quên và không bao giờ quên được!

VI ANH
(Việt Báo)

December 6, 2008

“Chống Cộng cực đoan”

Filed under: dân chủ,tự do,Vietnam — tdnl @ 8:27 am

Gọi Đàn
Số 47 thứ Năm 7 tháng 10 năm 1999

Cộng Sản Việt Nam ngày càng nhận ra rằng, chúng và bọn tay sai của chúng không thể nào dập tắt được ngọn lữa đấu tranh của người Việt hải ngoại để lật đổ chế độ độc tài của chúng. Trong gần 1/4 thế kỷ, bao nhiêu tiền bạc, tâm trí, biết bao nhiêu tên tay sai tình nguyện phục vụ chúng, Cộng Sản Việt Nam chẳng những không khống chế được người Việt hải ngoại mà ngày càng bị tập thể này lấn lướt, ngày càng dồn chúng vào những thất bại chua cay.

Ví dụ tập thể cựu quân nhân công chức VNCH, ban đầu Cộng Sản tưởng có diệu kế để tiêu diệt họ, Cộng Sản thâm độc hơn Hitler tiêu diệt người Do Thái bằng hơi độc, không dại gì làm cuộc tắm máu như Khờ me Đỏ, họ lùa kẻ thù vào những “trại cãi tạo”, bắt làm theo tiêu chuẩn mà không có ăn, không được thăm nuôi lại ở chỗ rừng sâu nước độc. Cộng Sản mượn hai vũ khí đói rét và bệnh tật để tiêu diệt dần mòn kẻ thù mà khỏi tốn cơm, không bị mang tiền tàn ác.

Nhưng nhờ các Việt kiều hải ngoại tranh đấu bằng mọi cách, những quân cán chính VNCH được thăm nuôi và cũng nhờ sự can thiệp của các chính phủ tự do qua sự tranh đấu của người Việt Hải ngoại Cộng Sản phải thả kẻ thù của chúng và cho qua Mỹ theo diện H.Ọ, những người Việt hải ngoại trở về lại trong nước để chiến đấu, những cuộc nỗi dậy ở trong nước đều có bàn tay hải ngoại trợ giúp.

Điều thiết thực mà người Việt hải ngoại đã làm cho Cộng Sản lo sợ nhất là chúng bị người Việt hải ngoại vạch rõ những cái tàn bạo, độc tài, và ngu xuẩn của Cộng Sản ở trong nước. Người Việt hải ngoại nói lên những gì mà người dân trong nước không thể nói được, người Việt hải ngoại là con mặt là lỗ tai và là cái loa của người dân trong nước.

Nhờ vậy, Cộng Sản không thể bưng bít những điều tàn ác chúng làm, không thể che dấu được, không thể lường gạt được dư luận quốc tế y như trước năm 1975. Nếu trước năm 1975, Cộng Sản đã thắng chúng ta nhờ dư luận tại hải ngoại thì sau năm 1975 CSVN rồi cũng phải chết vì người Việt hải ngoại đã vạch trần tội ác của chúng cho mọi người biết.

Hai mươi mấy năm qua, Cộng Sản Việt Nam vẫn không làm sút giảm cường độ chống Cộng của người Việt hải ngoại.

Thoạt mới nhìn làn sóng người di tản sau tháng 4-1975, Phạm Văn Đồng huênh hoang tuyên bố : mười năm nữa Việt Nam (CS) sẽ nhuộm đỏ nước Mỹ. Đồng tưởng sẽ xử dụng được khối người Việt di tản làm nội ứng, tình báo và kinh tài cho Cộng Sản, gây bất ổn cho nước Mỹ. Phạm Văn Đồng đã lầm.

Tuy nhiên, để giữ vững được một cường độ chống Cộng mỗi lúc một mạnh hầu một ngày nào đó lật đổ được chế độ Cộng Sản, người Việt hải ngoại phải luôn đề cao cảnh giác, phải chống Cộng một cách tích cực, cương quyết không chấp nhận lá cờ máu của chúng, không chấp nhận chúng là đại diện của người Việt hải ngoại cũng như trong nước, Cộng Sản đến đâu có biểu tình đến đó, chúng luôn luôn phải đi cửa sau, phải chịu nhục nhả.

Những cố gắng của CSVN và tay sai đều bị bẻ gảy một cách nhanh chóng và chính xác, hữu hiệụ Cộng Sản vừa chiêu dụ được Tô Văn Lai và Nguyễn Ngọc Ngạn phản bội , lập tức bị người Việt khắp nơi trên thế giới phản đối, khiến Tô Văn Lai phải ví việc ông ta dính bén đến Việt Cộng cũng như cái chân lỡ đạp cứt. Cộng Sản rất hận Tô Văn Lai việc so sánh này, chúng sẽ còn tiếp tục dùng Tô Văn Lai nhưng thế nào chúng cũng trả mối hận lòng này.

Ông Vũ Bình Nghi vừa dùng tờ báo này làm loa cho tên đồ tể Nguyễn Xuân Phong liền bị toàn thể người Việt San Jose lên án đến nỗi ông Vũ Bình Nghi phải “thống hối” tuyên xưng là có “tinh thần chống Cộng Thái Bình Xuân Lộc, Nhân Văn Giai Phẩm”.

Trần Trường nghe lời Cộng Sản đem ảnh Hồ Chí Minh và lá cờ máu treo trong nhà là bị hàng chục ngàn người biểu tình phản đối đến nỗi chính quyền Mỹ phải lập thế đưa Trần Trường vào tù và dẹp những của nợ của y đưa rạ Cộng Sản đã phải bễ mặt vì thất bại trong vụ này, chẳng những Trần Trường không làm nên cơm cháo gì mà cả thế giới đều có dịp chứng kiến tinh thần chống Cộng của người Việt hải ngoại rất cao và ngày càng cao.

Mặt Trận Hoàng Cơ Minh lợi dụng cuộc biểu tình của đồng bào đem hình ảnh tuyên truyền của Cộng Sản ra trình chiếu cũng bị phát giác, cũng bị vạch mặt.

Tuần trước, lợi dụng Tết Trung Thu, Mặt Trận Hoàng Cơ Minh tại Houston đã đem lồng đèn có khẩu hiệu của Hồ Chí Minh ra mong tuyên truyền với trẻ con cũng bị tất cả các đoàn thể bên Houston nhất tề phản đốị Dù có cãi cối cãi chày, cãi lấy được cách nào, toàn thể đồng bào Houston cũng biết được Mặt Trận làm tay sai cho Cộng Sản.

Đối với Cộng Sản Việt Nam, lực lượng chống Cộng hải ngoại là một lực lượng bất khả chống phá, dù chúng dùng những tay sai đắc lực, dù chúng chịu chi rất nhiều tiền. Một trong những âm mưu giảm cường độ chống Cộng của người Việt hải ngoại của Cộng Sản là chiêu bài chống Cộng cực đoan.

Đưa ra chiêu bài này, Cộng Sản không chống đối việc chống Cộng của người Việt hải ngoại, vì làm như thế chúng sẽ bị lên án nặng nề, những tay sai đắc lực nhất của chúng cũng không dám. Do đó, chúng “chấp nhận” việc chống Cộng là đương nhiên, nhưng mà – cái nhưng quan trọng – không nên cực đoan để người ngoại quốc người ta khinh khi, người ta cho người Việt hải ngoại hiếu chiến hoặc trong lúc thế giới đang hòa hoản mình hiếu chiến, chống Cộng cực đoan sẽ bị phản ứng ngược v. v. . .

Từ luận điệu không nên chống Cộng cực đoan đến những luận điệu : chống Cộng tới giờ thứ hai mươi lăm, chống Cộng tới sáng, tới chiều, giết cho đến thằng Việt Cộng cuối cùng v. v. . . đó là những luận điệu tay sai Cộng Sản gán cho người Việt chống Cộng, bêu rếu người chống Cộng của tay sai Cộng Sản.

Nhưng luận điệu của bọn tay sai do Cộng Sản Việt Nam mớm cho không thể nào đánh lừa được người Việt hải ngoạị Thế nào là chống Cộng cực đoan quá khích ? Chống Cộng cực đoan quá khích có phải là chủ trương tiêu diệt đến tên Cộng Sản cuối cùng không?

Đối với Cộng Sản, nhất là Cộng Sản Tàu và Cộng Sản Việt Nam chúng chủ trương giết hàng loạt, giết tập thể kẻ thù, xưa nay chỉ có Phát xít và Cộng Sản, nhất là Cộng Sản mới chủ trương và thực hiện những cuộc tắm máu, giết tập thể, thà giết lầm chứ không tha lầm.

Tết Mậu Thân tại Huế, Cộng Sản trong đó có Nguyễn Xuân Phong đã chôn sống tập thể mấy ngàn người, dù những người này là tù binh, chúng cũng giết tập thể những đồng đội của chúng khi rút lui vì sợ bị địch bắt sẽ có hại cho chúng.

Chính Hồ Chí Minh đã vâng lời Mao Trạch Đông để giết cả trăm ngàn người Việt Nam vô tộị Còn người Quốc Gia chưa bao giờ làm điều đó.

Suốt trong cuộc chiến từ 1945 cho đến 1975, người Quốc Gia chưa bao giờ phạm cái tội mà Cộng Sản đã phạm không biết bao nhiêu lần. Vậy thì không lý do gì người Quốc Gia lại chủ trương giết đến tên Việt Cộng cuối cùng như luận điệu những tên tay sai Cộng Sản “hót” theo quan thầy của chúng.

Nhưng người Quốc Gia chủ trương tiêu diệt chủ nghĩa Cộng Sản, không để cho một tập thể nào có chính sách như Cộng Sản cầm quyền, dù đó không phải là Cộng Sản. Cũng vì vậy mà Gọi Đàn chống đối Mặt Trận Hoàng Cơ Minh, vì Mặt Trận này có những hành vi dã man như Cộng Sản mà đã nhiều lần Gọi Đàn nêu ra cũng như luật sư Hoàng Duy Hùng, ông Phạm Văn Thành và Ngô Tỷ đã trình bày những điều tàn ác của Mặt Trận Hoàng Cơ Minh mà họ vừa là nhân chứng vừa là nạn nhân.

– Chống Cộng tới sáng, chống Cộng tới chiều, chống Cộng tới giờ thứ hai mươi lăm?

Nếu đã chủ trương chống Cộng thì dứt khoát phải chống cho đến khi không còn ai thực hiện chủ nghĩa Cộng Sản trên đất nước Việt Nam nữa. Nghĩa là người chống Cộng tiếp tục công việc của mình cho đến khi lật đổ chế độ Cộng Sản và thay vào đó một chế độ tự do dân chủ.

Chống Cộng làm cảnh, chống Cộng để kiếm một chỗ ngồi trong Cộng Đồng, chống Cộng để cho người ta biết mình là người chống Cộng hay chống Cộng để cho Cộng Sản phải giao thiệp với mình, phải nói chuyện với mình v. v. . . thì đó không phải là chống Cô.ng.

Loại chống Cộng này Cộng Sản Việt Nam rất hâm mô.. Những người chống Cộng thực sự không thể đi theo đường hướng này, cũng như Mặt Trận Hoàng Cơ Minh chống Cộng để Cộng Sản chia ghế cho là loại chống Cộng xôi thịt, vừa chống Cộng vừa làm tay sai cho Cộng Sản.

– Chống Cộng cực đoan có phải là phải dùng vũ lực, súng đạn để “nói chuyện” với Cộng Sản không ?

Đây là một câu hỏi gài bẫy mà Cộng Sản và tay sai thường dùng để bắt bẻ người Quốc Giạ Khi nào Cộng Sản và tay sai đặt ra câu hỏi này để bêu rếu, mỉa mai người chống Cộng, chúng cũng có một phản đề : ngày xưa cả triệu quân còn bị thua, nay trong tay không có tấc sắt mà đòi chống Cô.ng.

Nhưng câu hỏi gài bẫy này chỉ có tay sai Cộng Sản tình nguyện chun vào chứ người chống Cộng không chun vào bẫỵ Cộng Sản Nga, Cộng Sản Đông Âu hùng mạnh gấp ngàn lần Cộng Sản Việt Nam mà chết trước giờ chiến đấu bằng súng đạn, hay nói cách khác chúng không thể tự bảo vệ bằng súng đạn. Cộng Sản thua trước những người không có tấc sắt trong taỵ

Nga có nguyên tử, có tàu ngầm, có vệ tinh, có hỏa tiển nhưng thiếu thực phẫm, thiếu thuốc men, thiếu những nhu cầu tối thiểu cho con người mà phải đi đến chổ sụp đổ trước khi dùng sức ma.nh.

Tuy nhiên, bất cứ làm việc gì cũng không thể tự tạo cho mình một cái chuồng nguyên tắc rồi giam mình trong đó. Trái lại, phải tùy cơ ứng biến. Do đó, không phải như luận điệu chế riểu của Cộng Sản và tay sai, người chống Cộng tùy cơ ứng biến.

– Chống Cộng có đi ngược lại nguyện vọng hay trào lưu của thế giới hiện nay không?

Dứt khoát là không. Trong lúc cả thế giới đều hướng về tự do dân chủ, phục vụ con người đến nỗi lúc cần bảo vệ một thiểu số người, thế giới cũng không lý đến chủ quyền quốc gia của nước đó như vụ Kosovo, vụ Đông Timor mà Cộng Sản Việt Nam lại có chủ trương đi ngược lại, tàn ác với dân chúng, bóc lột tận xương tủy người dân, vi phạm trầm trọng các quyền tự do tối thiểu của con người thì CSVN chẳng những là kẻ thù của dân tộc Việt Nam mà còn là kẻ thù của nhân loạị

Chống Cộng ngày càng có chính nghĩa, những kẻ đã tàn sát tập thể chính đồng bào của mình hay một thiểu số sắc tộc nào đó phải đền tội trước tòa án Quốc Tế, chính vì vậy mà một tổ chức đưa Cộng Sản Việt Nam ra tòa án Quốc Tế đang hoạt đô.ng.

– Có nên chống Cộng không quá khích ?

Chính bọn Cộng Sản và tay sai cũng không cho mọi người một định nghĩa chống Cộng tới mức độ nào thì không quá khích. Lúc nào chúng thấy tập thể chống Cộng đạt một thắng lợi nào đó hoặc họ đang làm một việc gì bất lợi cho Cộng Sản thì chúng cho là chống Cộng quá khích. Khi ai nói cương quyết chống Cộng thì chúng bêu rếu là chống Cộng tới cùng.

Thực ra chống Cộng không bao giờ quá khích, không bao giờ cực đoan. Vì nếu chống Cộng quá khích thì Cộng Sản đã bị tiêu diệt. Khi nào chủ nghĩa Cộng Sản đã bị lật đổ, đảng Cộng Sản không còn cai trị dân Việt Nam mà chúng ta vẫn chống đối những người Cộng Sản lúc trước, khi đó mới là chống Cộng quá khích.

Cộng Sản còn tồn tại, Cộng Sản còn gieo tại họa cho dân tộc, Cộng Sản còn dùng chính sách đần độn để bóc lột dân chúng thì chưa có chống Cộng quá khích, chống Cộng cực đoan.

– Thương thuyết, hòa giải, cộng tác, liên hiệp với Cộng,Sản có phải là một hành động chống Cộng không qua’ khích, không cực đoan không ?

Kinh nghiệm cho thấy những giải pháp chống Cộng trên đây đều là không tưởng. Thương thuyết, hòa giải chỉ là không tưởng, vì khi thương thuyết có nghĩa là chúng ta phải có một sức mạnh, một lực lượng ít ra cũng bên mười, bên bảy tám mới nói chuyện thương thuyết hay hòa giải vì cả hai bên đều phải nhìn vào thực tế, chiến đấu tiếp chưa biết ai thắng, ai bại mà kéo dài vô ích, lúc đó mới thương thuyết.

Còn hòa giải thì chính Cộng Sản mới là kẻ phải hòa giải với chúng ta, chứ chúng ta không có gì để hòa giải với Cộng Sản, một là sau mấy chục năm cai trị theo chủ nghĩa Cộng Sản, Cộng Sản đã phá hoại đất nước, làm cho dân tộc ngày càng nghèo, càng đói rách, hai là chủ nghĩa Cộng Sản là một chủ nghĩa không tưởng, không thể thực hiện có kết quả được vì vậy mà Nga Sô và Đông Âu đã thất bại và bải bỏ chủ nghĩa Cộng Sản, hai là chính cộng Sản đang cầm quyền phải từ bỏ chủ nghĩa Cộng Sản, phải bỏ điều bốn hiến pháp của chúng, cho dân chúng được tự do, được xử dụng lá phiếu một cách tự do và công bình thì hòa giải hòa hợp sẽ đương nhiên có.

Với tình trạng hiện nay mà mói hòa giải hòa hợp là mắc mưu Cộng Sản cũng như những chính khách xôi thịt, chính khách xa lông trước năm 1975, nghe lời Cộng Sản mà chủ trương hòa giải hòa hợp, đến lúc Cộng Sản tròng được thòng lọng vào cổ thì chỉ thấy tù tội, ngoại trừ cán bộ của chúng mới được mang quân hàm, làm chủ xí nghiệp mà thôị

Kinh nghiệm Quốc cộng liên hiệp 11 lần của Trung Cộng và Quốc Dân Đảng Trung Hoa, kinh nghiệm liên hiệp với Cộng Sản giữa các đảng phái quốc gia và Cộng Sản năm 1946 đã cho chúng ta biết thủ đoạn thâm độc của Cộng Sản.

Liên hiệp chỉ là cái bẫy, hiệp ước đối với Cộng Sản chỉ có nghĩa là đối phương của chúng phải thi hành, còn chúng thì vi phạm hay không thi hành. Bao nhiêu hiệp ước mà Cộng Sản đã ký, có cái nào chúng tuân hành đâu ?

Ở trong nước ai nói tới Hòa giải hòa hợp đều bị tù. Vậy thì hai chữ hòa giải hòa hợp chỉ là một thủ đoạn rẽ tiền, người quốc gia chống Cộng không mắc mưu này của Cộng Sản.

– Khi nào gọi là chống Cộng quá khích ?

Lúc Cộng Sản không còn cai trị đất nước, khi Cộng Sản đã bị lật đổ mà chúng ta còn tìm cách trả thù, chúng ta còn dùng những thủ đoạn Cộng Sản để áp dụng cho chúng, chỉ khi đó chúng ta mới mang tiếng chống Cộng cực đoan hay quá khích. Còn bao giờ cộng Sản còn bóc lột dân chúng, còn tàn ác với đồng bào, còn bách hại tôn giáo không có hành vi chống Cộng nào gọi là quá khích cả.

October 2, 2008

Cộng Sản VN chỉ giỏi “Khôn nhà dại chợ”!

Filed under: dân chủ,tự do,Vietnam — tdnl @ 7:09 am

Alfonso Hoàng Gia Bảo

Sự căng thẳng trong tuần lễ 19-26/9 vừa qua về vụ Tòa Khâm Sứ và giáo xứ Thái Hà – Hà Nội là chưa từng có, nhưng vì liên quan đến tôn giáo nên đến cỡ đó chắc đã là đỉnh, bản thân nhà nước cũng không dám mạo hiểm hơn mà chỉ mong sao dẹp được đám đông giáo dân mà không gây đổ máu, với họ thế cũng đã là mừng lắm rồi. Vì thế “nhiệt độ” nay đang bắt dầu giảm dần, có thể một vài tuần nữa đâu sẽ lại vào đấy mặc dù vấn đề tồn tại với giáo hội thì đâu vẫn còn nguyên xi đấy!

Có người bảo Đời đã thắng Đạo trong vụ này. Nghĩ thế là do tầm nhìn của họ không thể vượt quá vài ngàn mét đất. Đấu tranh đòi CÔNG LÝ xưa nay chỉ có được mà không ai mất mát thêm – chỉ có thắng chứ không thể thua bao giờ. Chỉ riêng lá thư “Quan Điểm Của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam Về Một Số Vấn Đề Trong Hoàn Cảnh Hiện Nay” được đồng loạt tất cả các nhà thờ trên cả nước phổ biến đến mọi tín hữu sau Thánh Lễ Chúa Nhật hôm nay 28/9/2008, tôi nghĩ đó đã là một chiến thắng, giáo hội đã tự vượt qua chính mình và chiến thắng sự sợ hãi.

Nhưng nếu có ai đó muốn biết vì sao đạo lại “bị thua”, Chúa và Đức Mẹ vì sao lại bị “lôi cổ” ra khỏi đất của nhà thờ? Thiết nghĩ cũng cần nói cho mọi người biết, sỡ dĩ thua là vì đụng phải một chính quyền “khôn nhà dại chợ” luôn quyết ăn thua đủ với dân.

Tiếng Việt rất phong phú về ca dao, tục ngũ. Tôi nhớ lúc còn nhỏ vì hay nghịch ngợm nên thường xuyên bị bố mẹ la mắng, mà cái cách mấy cụ người Bắc dạy con cái thì ai từng ở Ông Tạ, Xóm Mới hay Hố Nai, Gia Kiệm chắc cũng đều biết, đòn roi là chỉ là chuyện nhỏ mà thơ văn đi cùng mới thật là đáng ngại, nghe các cụ “ngâm thơ” mà cảm thấy đau còn hơn cả ăn roi mây.

Lũ con trai hay quậy phá coi vậy mà còn được các cụ nương tay nên chỉ mắng yêu “cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng” hay “ở dưng không lành đâm đầu vào giành lại giẫy lung tung” nghe còn nhẹ nhàng, không như mấy cô con gái “điệu đà điệu đỡn” các cụ mà thấy gai mắt lên là thôi rồi! “Cái nết đánh chết cái đẹp” cô nào thấy chưa đủ “đô” thì đã sẵn có câu “gái ra khỏi nhà, cà ra khỏi vại” !!!

Cái gì cũng có thể thua con cháu nhưng riêng cái khoản “học ăn học nói, học gói học mở” qua ca dao tục ngữ, rõ ràng chúng ta chỉ đáng… “xách dép” cho các cụ. Chỉ bằng một mũi tên thôi các cụ khiến tới mấy con nhạn phải là đà, tám chữ “gái ra khỏi nhà, cà ra khỏi vại” mà vừa răn đe con cháu về “Công Dung Ngôn Hạnh” lại còn kiêm luôn cả chuyện dạy bếp núc, ngẫm nghĩ người xưa sao mà tài. Cà muối chưa dùng mà đem ra khỏi vại đúng là chẳng mấy chốc chúng đã bị thâm đen, nhìn hết muốn ăn!

Nay thì các cụ đa số đã về Nhà Chúa, chứ nếu các cụ còn sống xem tin tức về đạo qua VietCatholic thấy cái kiểu “đối nhân xử thế” đê tiện của quan chức cộng sản thời nay, thế nào các cụ cũng tặng cho họ cả thúng ca dao tục ngữ đem về mà suy gẫm.

Riêng tôi mỗi khi thấy cảnh công chức chèn ép dân lành trong nước, công an rượt đuổi bắt bớ các dân oan ở vườn hoa Mai Xuân Thưởng (Hà Nội), dùng dùi cui và hơi cay với giáo dân Thái Hà tranh giành với người dân từng bức tường, từng mét đất, từng chút quyền lợi nhỏ v.v… tôi ước phải chi có cụ nào đó ở giáo xứ này dám vào tận cung quan triều đình nhìn thắng vào họ như Đức TGM, mà rằng “làm quan như chúng bay đúng là một lũ khôn nhà dại chợ chỉ giỏi bắt nạt dân nhưng khi ra ngoài làm ăn với thiên hạ chỉ toàn thấy từ “chết tới bị thương” ôm đầu máu chạy về cầu cứu tiền dân !!!

Các cụ đừng sợ bị họ buộc tội vu oan, nếu bị họ hoạnh họe căn cứ vào đâu mà nói thế, thì con xin cung cấp bằng chứng đầy đủ đây. Bỏ qua các phi vụ “chết vì thiếu hiểu biết” thời ông Nguyễn Văn Linh xa xưa khi đem vài triệu USD mồ hôi nước mắt của dân chúng “biếu không” cho Ấn Độ để rước về cái nhà máy dệt thổ… tả! (thay vì “thổ cẩm”, do lúc bấy giờ phe XHCN sắp rệu rạo nên Hà Nội mày mò sang làm bạn với khối “Không Liên Kết” do Ấn Độ lúc bấy giờ đang làm “chủ xị”) chỉ xin nêu ra 3 vụ mới gần đây, mà mỗi vụ là một bài học đau còn hơn bị bò đá, chuyện như sau:

1. Vụ HLV LeTard với bài học về “sự tác hại của luật rừng cộng sản” học phí sơ sơ mới hết có… hai trăm ngàn đô!

Cụ nào yêu thích bóng đá hẳn chưa thể quên vụ LĐBĐ Việt Nam phải trả móc hầu bao những 3 tỷ VND cho ông HLV Letard cuối năm 2004 vì bị thua kiện tại Tòa Án Trọng Tài Thể Thao Quốc Tế ở Thụy Sĩ. Nguyên nhân: LĐBĐ VN đem luật rừng ra buộc ông ta chấm dứt hợp đồng huấn luyện viên cho đội tuyển bóng đá quốc gia sau thành tích bết bát tại Seagames 22.

Chuyện đi ở đối với nghề HLV là rất bình thường, mặc dù vậy khi lỡ bị sa thải cũng đâu có HLV nào lại muốn nó ầm ĩ, “tốt khoe xấu che” mà. Hơn nữa với một nước có nền bóng đá còn yếu như VN không HLV nào lại nỡ làm chuyện “cạn tàu ráo máng” lúc ra đi. Nhưng cũng giống như chuyện dân oan đi đòi đất đai bị cướp bị nhà nước lôi cái Nghị Quyết 23/ QH11/2003 ra để noí chuyện, sự ngu xuẩn và cố chấp của các quan chức LĐBĐ VN đã buộc ông Letard phải làm đến nơi đến chốn vì danh dự cá nhân ông.

Đã thế khi đã biết HLV này đang kiện mình ra tới tòa án quốc tế Thụy Sĩ, các quan chức chứng nào tật nấy, coi như không có chuyện gì xảy ra thế mới biết đầu óc ấu trĩ của mấy ông tiến sĩ XHCN nặng tới cỡ nào.

Thế rồi chuyện gì phải đến nó đã đến “…giữa tháng 10/2004, VFF đã choáng váng khi nhận phán quyết từ Toà án này, yêu cầu LĐBĐ Việt Nam đền bù 197.800 USD cho ông Letard vì đơn phương phá vỡ hợp đồng với lý do không chính đáng” (báo VietnamNet) đi kèm với quyết định này là bóng đá VN phải đối đầu với nguy cơ bị cấm tham gia các giải đấu trong khu vực ASEAN do AFF và FIFA áp đặt. Tới nước này thì chỉ còn chờ đêm hôm xuống, cha con VFF lặng lẽ thu gom tiền bạc sang nộp cho thiên hạ, nhưng điều đáng nói là 3 tỷ này không phải là tiền lương hay tiền nhà của các quan chức mà được lấy từ ngân sách của Liên Đoàn BĐ tức là của cả xã hội.

2. Vụ Vietnam Airlines với bài học về “phải chơi bằng luật quốc tế” học phí đã leo lên tới 5,2 triệu đô!

Đúng là “tiền nào của nấy” bài học này ly kỳ hấp dẫn hơn bài của ông Letard nhiều. Chuyện là vào năm 1991, VN Airlines thuê Công ty Falcomar (Ý) làm đại lý tại Ý. Công ty này thuê lại ông Maurizio Liberati thực hiện một số công việc cho Falcomar với tư cách đại diện cho VN Airlines, sau đó VN Airlines lại không có nhu cầu nên thôi. Nhưng thay vì phải lo thanh lý hợp đồng theo yêu cầu của công ty Falcomar thì VN Airlines lại đem luật rừng ra xài đặng “bỏ… nợ chạy lấy người” tưởng vậy là xong.

Nhưng “đi đêm ắt có lúc phải gặp ma” và lần này trời xui đất khiến họ gặp phải sư tổ nhà ma, Maurizio Liberati là chuyên gia chạy cò dịch vụ tầm cỡ quốc tế. Tay này nhận ra rằng VN Airlines là công ty nhà nước 100% và được điều hành bởi các đảng viên chẳng những không rành về luật lệ thương mại mà còn quen xài luật rừng ở trong nước qua cách nói chuyện rất kênh kiệu của bọn họ. Nếu để chuyện phá vỡ hợp đồng nếu diễn ra đúng luật hắn sẽ chẳng được là bao, vì thế phải giăng bẫy để đưa các “đỉnh cao trí tuệ” lọt vào, thời gian kéo dài càng lâu càng có lợi cho hắn.

Thế là sau lần khởi kiện đầu đầu vào ngày 1/11/1994 hắn liền quay sang chơi trò “mèo vờn chuột” với VN Airlines lúc cương lúc nhu khiến cho các “bố” nhà ta lại cũng lại giống như VFF tưởng không có chuyện gì là ầm ĩ, tưởng Tòa án Hỏa Lò vẫn là trên hết, cứ thế mà ăn ngủ ngon giấc.

Chẳng mấy chốc 5-7 năm đã trôi qua, khi VN đang khao khát để được gia nhập WTO cũng là lúc Maurizio Liberati hiểu rằng thời cơ đã đến, bởi vì vào thời điểm này mọi scandal kinh tế đều rất bất lợi trong khi đang đàm phán với các nước, nhất là Mỹ khá là gay go nên VN sẽ phải lo giải quyết cho êm đẹp và nhanh chóng.

Thế là thông qua sự cho phép tương trợ pháp lý giữa các quốc gia thành viên trong khối EU, đầu năm 2004 toàn bộ hồ sơ vụ kiện được chuyển sang xét xử tại tòa án Paris nước Pháp vì chỉ có nơi này cơ sở của VN Airlines lớn nhất Châu Âu sau mấy chục năm kinh doanh nên có rất nhiều “tóc để túm” đúng như ông bà mình vẫn hay nói “túm thằng có tóc chứ chẳng ai túm đứa trọc đầu” như khi kiện họ ở Rome.

Cuối cùng Maurizio Liberati cũng đã túm mớ tóc dài của các quan chức VN Airlines trị giá những 5,2 triệu USD! Quả là một khoản tiền trong mơ mà nếu không nhờ duyên số đưa đẩy, không gặp những kẻ “khôn nhà dại chợ” từ Hà Nội sang chắc gì cả đời hắn đã kiếm nổi? Vụ này VN Airlines còn đáng được các cụ tặng thêm câu “thân lừa ưa nặng”, thay vì chỉ nộp phạt 90 ngàn USD nay phải trả tới 5,2 triệu euro, cao gần gấp 100 lần.

Đến lúc này dân chúng mới hay biết khi VN Airlines thấy không thể tự mình giải quyết và phải báo cáo thủ tướng chính phủ vì nguy cơ bị tích biên tài sản tại EU đang đến gần. Nhưng nếu Paris mà gần Ha Nội như Vientianne Lào tôi chắc VN Airlines vẫn chưa ngán đâu, không chừng còn đề nghị thủ tướng cho quân tràn qua biên giới dùng luật rừng để giải quyết vụ việc cũng nên?

Ông bà ta hay bảo “vỏ quít dày có móng tay nhọn” là vậy, cái tên “Maurizio Liberati” chắc chắn sẽ còn ám ảnh ngành hàng không VN còn lâu, nhưng với các quan chức ngành khác thì chưa họ mới chỉ bắt đầu lọt tọt xách vở đi học rồi đây sẽ còn vô khối “em” phải đóng học phí. Nhưng bài học cuối cùng dưới đây mới đúng là nhục nhã và nhớ đời cho lũ quan “khôn nhà dại chợ” Hà Nội mà người thầy dạy họ chẳng phải ai xa lạ, mà là một Việt kiều ở Hà Lan, ông Trịnh Vĩnh Bình.

3. Vụ Trịnh Vĩnh Bình với bài dạy Hà Nội “làm người phải biết sống cho tử tế” trị giá những vài trăm triệu đô.

Trong bài viết “Trịnh Vĩnh Bình kiện nhà nước Việt Nam” của tác giả Trọng Kim trên tờ Ngày Nay (Houston-USA) tháng 11/2006 có viết về vụ này tóm tắt như sau:

”Đúng vào dịp Việt Nam vừa được nhận vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) thì vụ án Trịnh Vĩnh Bình kiện nhà nước Việt Nam trước tòa án quốc tế về đầu tư đòi bồi thường nhiều trăm triệu Mỹ kim (MK) sẽ đuợc đem ra xét xử tại thủ đô Thụy Điển vào đầu tháng 12 tới (2006), có thể gây nhiều bối rối cho Hà Nội nếu bị thất bại như đã từng thua kiện trong vụ Vietnam Airlines trước đây tại Paris.

Ông Trịnh Vĩnh Bình, một công dân Hòa Lan gốc Việt, đã đem tiền về đầu tư ở Việt Nam, rất thành công nhưng sau đó đã bị thế lực công an hãm hại, bị án tù 11 năm và tịch thu hết tài sản trị giá khoảng 30 triệu MK. Thoát ra được ngoại quốc, ông đã thuê luật sư Mỹ đệ nạp đơn kiện Việt Nam chiếu theo điều khoản của Hiệp ước Song phương về đầu tư giữa Việt Nam và Hoà Lan (Nethreland) ký năm 1994.

Đơn kiện đã được cứu xét tại thủ đô Stockholm của Thụy Điển căn cứ theo những qui luật trọng tài của Uỷ Ban Liên Hiệp Quốc về Luật Mậu Dịch Quốc Tế. Theo thông tin mà Ngày Nay được biết, thì phiên tòa quốc tế này sẽ họp từ 4 tới 12 tháng 12 để xét xử vụ trên và sẽ do ba thẩm phán điều hành gồm một thẩm phán người Thụy Điển, một thẩm phán gốc Mỹ và một gốc Pháp. ….

Ba tuần trước khi vụ án khởi sự ở Thụy Điển, theo nguồn tin riêng của Ngày Nay cạnh vụ án thì số tiền tổ hợp Luật sư Mỹ của ông Bình ở Hoa Thịnh Đốn đưa ra trước tòa để đòi bồi thường đã lên tới con số gấp hai, ba con số được đưa ra hồi năm ngoái. Nguồn tin của Ngày Nay chỉ cho biết “ít lắm là 150 triệu MK trở lên” vì dựa trên những định giá mới của phía luật sư Mỹ đại diện cho ông Bình. (hết trích)

Bấy nhiêu có lẽ cũng đã đủ nói lên tầm cỡ của vụ việc và nó đã khiến chính quyền VN phải thu xếp “đi đêm” với ông Bình để bằng mọi giá hủy bỏ phiên tòa này, nếu để nó diễn trong bối cảnh chuẩn bị gia nhập WTO, VN là chủ nhà của APEC sẽ rất bất lợi vì thế nó đã kết thúc trong bóng tối giống hệt như những gì cộng sản vẫn làm xưa nay, vì đó là bản chất của họ.

Việc chọn thời điểm ngay cuối năm 2006 để đưa vụ việc ra tòa chắc chắn ông Bình cũng đã học được ở Maurizio Liberati trong vụ VN Airlines nhiều điều bổ ích, nên chỉ cần một chiêu duy nhất những kẻ từng gây khổ cho ông năm xưa nay phải quay sang quị lụy ông ngay tức khắc. Về khoản tiền bồi thường, khi các nhà báo hỏi ông Trịnh Vĩnh Bình đã từ chối khéo nhưng ai cũng biết lý do im lặng là ĐỂ GIỮ ĐÚNG LỜI HỨA với nhà nước VN, mặc dù muốn chơi khăm họ ông ta có thể nuốt lời như họ từng nhiều phen với dân chúng trong nước.

Nhưng chính qua sự từ chối ấy ông ta đã dạy thêm cho “nhà cầm quần” Hà Nội bài học ngoài chuyện bị đau vì tiền nong thua kiện “LÀM NGƯỜI THÌ PHẢI SỐNG SAO CHO TỬ TẾ” nói thế nào thì phải làm đúng như vậy. Là nhà cầm quyền càng cần phải giữ chữ tín với người dân hơn “CHỚ CÓ BAO GIỜ NÓI MỘT ĐẰNG LÀM MỘT NẺO”.

Kết luận

Vì là ca dao, tục ngữ nên các cụ xưa phải làm sao cho nó ngắn gọn để mọi người dễ nhớ, nói một cách đầy đủ thì chữ “khôn” trong câu này phải hiểu nó là “khôn lanh” cái loại khôn quỷ quyệt của những con người gian xảo mà không phải là sự “khôn ngoan” như những con nhà đàng hoàng được giáo dục hẳn hoi.

Những chuyện “lật lọng của phe cộng sản” khi họ ký kết hay hứa hẹn một điều gì đó cũng từ cái sự “khôn lỏi ” này mà ra. Từ hiệp định Genève 1954 cho đến Paris 1973, từ các Công Ước Quốc Tế Liên Hiệp Quốc về nhân quyền v.v… nhìn lại lịch sử cộng sản Hà Nội ký bao nhiêu hiệp định là bấy nhiêu bội ước.

Về cái sự “khôn nhà dại chợ” của chính quyền cộng sản thì chẳng phải là điều gì mới mẻ. Ngay từ những năm 1930 ông Hồ Chí Minh đã tự nguyện vác dân tộc ra làm bia đỡ đạn cho chủ nghĩa cộng sản ở vùng Đông Nam Á trước súng đạn của thế giới tự do rồi. Đến lúc lập ra nhà nước VN-DCCH ông Phạm Văn Đồng lại “dại chợ” khi ký công hàm tự nguyện ký dâng cho Trung Cộng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào ngày 14/9/1958.

Qua mấy vụ việc nêu trên chúng ta thấy rằng, hiện nay chỉ có luật pháp quốc tế mới trị nổi đảng cầm quyền quen xài “luật rừng” như họ. Cái giá phải trả cho bài học sau đắt hơn bài trước. Thế mới biết số phận của những hạng “khôn nhà dại chợ” là vậy, chỉ giỏi bắt nạt dân trong nước nhưng khi đối đáp với thiên hạ lại chẳng bằng được ai bao giờ.

Tham khảo:
http://www.vnexpress.net/GL/The-thao/2005/01/3B9DA3C5/
http://www.tuoitre.com.vn/Tianyon/Index.aspx?ArticleID=142004&ChannelID=3

July 28, 2008

Trần Anh Kim: Phải Xổ!

Filed under: dân chủ,tự do,Vietnam — tdnl @ 4:33 am
Tags: , , , ,

Kết thúc chiến tranh, những ông quan cách mạng vào Nam tận mắt chứng kiến: Mỹ để lại ở miền Nam Việt Nam khối tài sản khổng lồ. Khi tiếp quản, cố Tổng bí thư Lê Duẩn dõng dạc tuyên bố: “Tổ Quốc ta đã vĩnh viễn độc lập tự do, non sông đất nước đã thu về một mối, trong vòng 15 đến 20 năm sau không có kẻ thù nào giám động đến chúng ta, Sài Gòn là hòn ngọc Viễn Đông, nền kinh tế miền Nam gấp 20 lần Thái Lan…“. Sau đó, nguyên Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Đỗ Mười được Bộ Chính trị phân công chỉ huy một Trung Đoàn đặc công vào Nam làm nhiiệm vụ cải tạo công thương, trước mắt là diệt Tư Sản, Tư Sản mại bản. Hoàn thành nhiệm vụ, ông kể lại trình tự quá trình đánh Tư Sản Miền Nam. Chúng tôi được nghe toàn văn cuộc nói chuyện qua băng ghi âm, ông nói: “Chúng nó rất giầu, giầu ngoài sự tưởng tượng của chúng ta, không phải chúng nó là triệu phú mà chúng nó là tỷ phú, là siêu tỷ phú…“. Được tiếp thu sản phẩm của nền kinh tế thị trường, các quan Cộng Sản hoa mắt và nhiều ông nói: “Nay mai miền Bắc sẽ trở thành các khu công nghiệp, miền Nam là vựa lúa, chỉ cần lúa trời cũng đủ nuôi sống dân tộc…“.

Ngày ấy còn trẻ, được nghe những lời đường mật, tôi cứ hy vọng một ngày không xa, của cải sẽ “tuôn ra ào ào như không khí” và cảnh “làm theo lăng lực, hưởng theo nhu cầu” đã cận kề. Được như vậy cũng bõ những năm tháng lăn lộn chịu đựng đầy rẫy khó khăn, gian khổ, ác liệt… suốt mười năm ở chiến trường miền trung khói lửa. Chờ mãi, chờ mãi cuộc sống “vinh hoa” do Cộng Sản Việt Nam tuyên truyền không thấy nhưng những cảnh cơ hàn càng ngày, càng đè nặng. Mười hai năm lăn lộn ở biên giới phía Bắc để được hưởng cái cảnh “bát canh toàn quốc, nước nắm đại dương”. Những khó khăn gian khổ trên không làm nản lòng những người lính chiến ngoài mặt trận bởi: Ai cũng tin tưởng ở hậu phương chính quyền toàn là những cán bộ, đảng viên mô phạm, trong sạch, vững mạnh, hết lòng vì dân….

Năm 1988, từ biên giới phía Bắc, tôi được điều về làm công tác quân sự địa phương. Tiếp xúc với chính quyền, lúc đó mới biết những cán bộ địa phương mục ruỗng, thối nát… ngoài sự tưởng tượng của tôi. Nghịch lý mà những người dân bình thường cũng nhận ra đó là:

– Thời bình, những thanh niên trai tráng trong lực lượng vũ trang đều được tuyển chọn rất kỹ lưỡng, chu đáo kể cả trình độ học vấn, hình thức, dáng người…. Song chính quyền địa phương phần lớn tuyển chọn cán bộ từ nguồn tự vệ, cờ đỏ, coi chợ, kém học vấn, vô văn hoá… đưa lên làm ông nọ, bà kia (!). Những chiến sỹ hoàn thành nhiệm vụ ở mặt trận trở về (trừ loại con ông, cháu cha) nếu may mắn được cử tham gia chính quyền nhưng đều dưới chướng của lũ cờ đỏ, coi chợ… (!). Nghe theo bọn chúng còn kiếm được miếng nuôi thân. Nếu sống đúng bản chất người lính, chỉ ngày một, ngày hai là bị loại. Chất của chính quyền là hàng chợ nên bọn chúng hành xử với nhân dân cũng theo kiểu kẻ chợ. Mặt khác được đảng thao túng, cho phép kết bè, kéo cánh (gọi là tạo ê kíp làm việc) nên chính quyền càng ngày càng thối nát, mục ruỗng…. Bọn chúng thoả sức ăn cắp, ăn cướp… làm giầu trên mồ hôi, xương máu của nhân dân, nhất là thời kỳ “đổi mới”. Hố ngăn cách giữa chính quyền với nhân dân phát sinh từ đó. Điều hiểm nhiên là: chính quyền 100% là đảng viên không một cán bộ nào ngoài đảng nên chính quyền mục ruỗng, thối nát… cũng có nghĩa là đảng mục ruỗng, thối nát… (!)

– Việt Nam trên 70% là nông dân, sản phẩm người nông dân làm ra chủ yếu là lúa, cà phê, ca cao, hồ tiêu, hạt điều, cá tra, cá ba sa… đều là những mặt hàng xuất khẩu có tiếng trên thế giới, nhưng vẫn bị ép giá. Rõ ràng những sản phẩm quý báu của nông dân không những góp phần nuôi sống xã hội mà còn thừa xuất khẩu, tiếng tăm đảng hưởng (!). Nhưng đảng đầu tư cho nông dân không đáng là bao. Tiền kêu gọi thế giới rót vào, đảng tập trung đầu tư cho công nghiệp, nhưng những sản phẩm do nền công nghiệp làm ra nông dân phải mua theo giá thị trường. Những năm gần đây, lợi dụng việc phát triển công nghiệp, đảng trắng trợn cướp ruộng, đất của nông dân, biến những cánh đồng màu mỡ thành các khu công nghiệp, khu đô thị, sân gôl…. Tưởng rằng người nông dân sẽ được đổi đời, song càng ngày, người nông dân càng lâm vào cảnh đường cùng không lối thoát. Lợi dụng cơ chế, cán bộ, đảng viên (những kẻ có chức, có quyền) cướp được của dân, không mấy chốc trở thành tư sản, địa chủ kếch sù, người nông dân chỉ biết đứng nhìn thở dài, ai oán !.

Trò chuyện với bạn tôi, anh nói: “Ông Kim ơi ! Tôi rất yêu Tổ Quốc ! nhưng tôi không thể yêu những con giun, con sán trong lòng Tổ Quốc được !“. Tôi nói với bạn tôi: Nếu đã phát hiện loài giun, sán đầu đen trong lòng Tổ Quốc thì dân tộc Việt Nam phải dùng liều thuốc xổ và liều thuốc xổ đó chính là phong trào: đấu tranh đòi dân chủ hoá đất nước theo phương châm đối thoại hoà bình, bất bạo động và muốn đất nước phát triển để sánh vai cùng các cường quốc năm châu thì phải hoà nhập với những phong trào tiến bộ chung của toàn cầu: đa nguyên, đa đảng... Loài giun, sán đầu đen hiện tại đã trở thành những con ký sinh trùng sống trong lòng Tổ Quốc. Hàng ngày, hàng giờ… chúng thi nhau hút máu, hút tuỷ Tổ Quốc làm đất nước tụt hậu đứng hạng bét các nước cùng khu vực. Theo báo “Tuổi Trẻ” thì: “Điển tổng các chỉ số của Việt Nam gần đây nhất là 3,17 so với bình quân của EAP là 6,61 (nơi điểm 10 là tốt nhất)… Việt Nam đứng sau các nước EAP ở tất cả 12 chỉ số phụ của KEI (đặc biệt là tỷ lệ giáo dục đai học hoặc cao đẳng, khi tỷ lệ học đại học, cao đẳng Việt Nam chỉ đạt 16% so với mức trung bình là 38% của EAP)”. Hình ảnh Tổ Quốc Việt Nam hiện nay là bụng ỏng, đít beo… đang cố lê thân không nổi vậy mà kẻ vô văn hoá vẫn nói lấy được là: “giữ vững và dương cao con đường độc lập tự chủ” (!).

Chúng ta những chiến sỹ Dân Chủ, những thành viên trong khối 8406, những người thực sự yêu nước, thương nòi…(kể cả trong và ngoài nước) phải tiếp tục vào cuộc mạnh mẽ hơn nữa làm cho liều thuốc Dân Chủ Hoá Đất Nước thực sự có hiệu lực. Phải tẩy bằng sạch loài giun, sán đầu đen để cứu Tổ Quốc thoát căn bệnh hiểm nghèo. Tẩy xong, nhân dân tập trung bồi bổ, tĩnh dưỡng… Tổ Quốc khoẻ mạnh, phấn đấu cùng bạn bè hoà nhịp chung với phong trào tiến bộ của các nước tiên tiến trên phạm vi toàn thế giới.

Loài giun, sán đầu đen chính là tập đoàn giặc nội xâm đã và đang cấu kết chặt chẽ với nhau phá hoại đất nước. Trách nhiệm của chúng ta (những chiến sỹ dân chủ, những thành viên trong khối 8406, những người thực sự yêu nước, thương nòi… cả trong và ngoài nước.) phải cùng nhau đoàn kết tạo thành liều thuốc hữu hiệu, quyết tẩy bằng sạch loài giun, sán đầu đen cứu Tổ Quốc Việt Nam đang có nguy cơ khủng hoảng trầm trọng trên mọi lĩnh vực và vẫn nằm trong tình trạng tụt hậu thảm thương !

Để cứu Tổ Quốc, cứu giống nòi chúng ta PHẢI XỔ !

Tự do – Dân chủ – Đoàn kết muôn năm !
Dân tộc Việt Nam bất diệt !
Tổ Quốc Việt Nam muôn năm !

Ngày 08 tháng 7 năm 2008
Trần Anh Kim
Uỷ viên Trung ương Đảng Dân Chủ Việt Nam.
Thành viên Ban điều hành khối 8406 tại miền Bắc.

Địa chỉ liên lạc:
Số nhà 502, phố Trần Hưng Đạo,Tp Thái Bình, tỉnh Thái Bình, Việt Nam.
Tel: 036642818 và mạng, bị tập đoàn giặc nội xâm cắt để bưng bít thông tin.
Mobile: 0936669296

Ghi chú
Lực lượng An ninh Nhân dân Việt Nam (trong đó có Thái Bình) cử lính bám và phát hiện tập đoàn giặc nội xâm ăn cắp, ăn cướp… của nhân dân thì không. Nhưng cử lính theo dõi và bám những người chống giặc nội xâm (trong đó có tôi) thì thường xuyên như thế đó (!) (xem ảnh, trong ảnh có 2 xe máy, 3 chiến sỹ An Ninh bám theo)

July 24, 2008

Cờ Vàng Ba Sọc Đỏ – Cờ Truyền Thống Của Dân Tộc Việt Nam

Filed under: dân chủ,tự do,Vietnam — tdnl @ 6:56 am

Cờ vàng ba sọc đỏ không phải chỉ là cờ của nền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hòa, mà đã có từ thời vua Thành Thái từ năm 1890 kéo dài 30 năm cho đến năm 1920 (1*). Đến thời Bảo Đại khi ông Trần Trọng Kim làm thủ tướng, cờ truyền thống nền vàng ba sọc đỏ đã được chính thức công nhận là quốc kỳ bằng sắc lệnh số 3 ngày 2/6/1948, do Thiếu Tướng Nguyễn Văn Xuân ký với tư cách thủ tướng chánh phủ lâm thời Quốc Gia Việt Nam lúc ấy (2*).

Cờ Việt nền vàng bắt nguồn từ truyền thống dân tộc Việt có từ thời Hai Bà Trưng, được cải tiến nhiều lần qua thời gian và cuối cùng có hình dạng nền vàng ba sọc đỏ như hiện nay. Để biểu lộ lòng yêu dân tộc và trung thành với truyền thống dân tộc Việt thì cờ của dân tộc Việt Nam phải có nền vàng.

Như vậy, cờ vàng ba sọc đỏ – đã có từ 118 năm trước (tính đến năm nay, 2008) – không phải chỉ là cờ của một chế độ hay một thể chế chính trị nào, mà là quốc kỳ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Khi Việt Nam bị chia đôi thành hai miền Nam Bắc, các Chính phủ Miền Nam dưới thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa, do trung thành với truyền thống dân tộc, đã dùng lá cờ vàng của dân tộc làm quốc kỳ. Dưới ngọn cờ biểu tượng cho chính nghĩa Tự Do này, tập thể dân quân miền Nam Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu để tự vệ, chống lại cộng sản xâm lược từ miền Bắc vốn được Liên Sô và Trung Quốc đắc lực trợ giúp vũ khí và nhân sự.

Việt Sử là một lịch sử tranh đấu hào hùng, dai dẳng và kiên trì cho nền tự do, độc lập của toàn dân tộc khi bị giặc Hán cai trị hàng ngàn năm, bị giặc Tây đô hộ gần 100 năm, và hiện nay đang bị giặc nội xâm cộng sản toàn trị suốt mấy chục năm qua. Qua các cuộc tranh đấu cứu nước, cờ của dân tộc, dù thay đổi tùy thời đại, luôn luôn có nền màu vàng. Người Việt hải ngoại và các chiến sĩ tự do đang đấu tranh ở quốc nội coi Cờ Vàng là biểu tượng cho cuộc tranh đấu dành lại tự do, dân chủ và độc lập cho dân tộc Việt Nam. Vì thế, cờ vàng ba sọc đỏ minh nhiên là cờ chung của cả dân tộc Việt Nam và của những người Việt Nam đang theo đuổi lý tưởng tranh đấu cho tự do dân chủ.

Năm 1975, cộng sản miền Bắc đã cưỡng chiếm được Miền Nam bằng bạo lực tàn ác và những thủ đoạn chính trị gian xảo, nước Việt Nam được thống nhất dưới chế độ cộng sản độc tài hà khắc. Đảng cộng sản đã áp đặt người dân hai miền phải dùng lá cờ nền đỏ sao vàng. Nền đỏ là nền cờ của Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng như của Đảng Cộng Sản Quốc Tế (với hình búa liềm). Nó hoàn toàn không có tính dân tộc hay tình tự dân tộc. Người Việt gọi là “cờ máu” rất đúng vì cờ này được xây dựng trên máu xương của hàng triệu người dân vô tội đã chết cách hết sức oan uổng. Thật vậy, dưới lá cờ này, người dân Việt Nam đã phải hy sinh quá nhiều xương máu một cách thê thảm, phí phạm và vô ích. Những lá cờ nền đỏ của các nước cộng sản đều có nhiều nét tương tự nhau: cờ Liên Sô có một sao đỏ và hình búa liềm, cờ Trung Cộng có 1 sao lớn 4 sao nhỏ màu vàng. Lá cờ CSVN có một sao lớn màu vàng y hệt như lá cờ của tỉnh Phúc Châu Trung Quốc. Nó chỉ có thể là cờ riêng của một chế độ CSVN, một chế độ độc tài tàn ác, đàn áp bóc lột nhân dân, tước đoạt mọi quyền của con người, kể cả quyền tự do tôn giáo và quyền căn bản nhất là quyền tự vệ trước sự đàn áp bóc lột của chế độ. Đó quả là một chế độ hoàn toàn ngược lại với ý chí và quyền lợi của dân chúng. Vì thế, cờ đỏ sao vàng của CSVN hoàn toàn không phải là cờ của dân tộc, trái lại, nó là lá cờ thù nghịch với dân tộc Việt Nam, thù nghịch với các tôn giáo, các tín đồ tôn giáo.

Không sống nổi dưới chế độ phi nhân này, trên 3 triệu người Việt đã phải vượt biên vượt biển tìm tự do, mang theo lá cờ vàng ba sọc đỏ thân yêu bắt nguồn từ truyền thống dân tộc. Kể từ đó, lá cờ này đã trở thành biểu tượng của Tự Do cho toàn thể khối người Việt tự do trên khắp thế giới.

Tóm lại, qua những trình bày trên, ta thấy cờ vàng là cờ truyền thống của dân tộc Việt Nam, vì dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã chọn màu cờ vàng là cờ của quốc gia dân tộc. Trung thành với truyền thống đó, cờ vàng ba sọc đỏ chính là cờ truyền thống của dân tộc Việt Nam, chứ không phải của riêng một thể chế nào.

Tôi rất lấy làm lạ khi thấy nhiều người từ trong nước ra hải ngoại – kể cả những tu sĩ, những chức sắc cao cấp nhất, trí thức nhất trong các tôn giáo – lại tỏ thái độ tránh né lá cờ Tự Do, lá cờ truyền thống của dân tộc đã tồn tại từ 118 năm nay. Tại sao? Tại sao khi đến với đồng bào hải ngoại thân thương ruột thịt, họ lại tỏ ra e ngại, tránh né, thậm chí xúc phạm đến biểu tượng mà người Việt hải ngoại hết sức trân quý, yêu thương, cũng là biểu tượng cho Tự Do Dân Chủ, một nhu cầu tối yếu mà chính người trong nước đang khao khát nhưng chưa có? Phải chăng họ e sợ khi trở về nước sẽ bị công an trong nước bắt bẻ, hành tội một cách phi lý? Là người trí thức, có khả năng ăn nói mạnh mẽ và lý luận cao hơn người thường, lẽ nào họ lại không biết cách giải thích phân minh cho công an, cán bộ cộng sản hiểu rằng: lá cờ vàng ba sọc đỏ không chỉ là cờ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa mà còn là cờ truyền thống của dân tộc, của lý tưởng tự do dân chủ của người Việt? Nếu CSVN đã công nhận người Việt hải ngoại là “khúc ruột ngàn dặm” của họ thì mặc nhiên họ đã công nhận biểu tượng hay lá cờ của “khúc ruột ngàn dặm” ấy rồi!

Các tu sĩ tôn giáo chắc chắn phải biết lá cờ nào là thù nghịch với tôn giáo, với niềm tin tôn giáo của họ. Họ phải biết lá cờ nào đã từng chủ trương tiêu diệt họ, hạn chế tự do tôn giáo của họ, và cờ nào là cờ đang tranh đấu cho chính họ để họ được tự do hành đạo chứ! Chẳng lẽ họ không phân biệt được cờ nào là bạn, cờ nào là thù?

Biết bao thường dân nhỏ bé, thậm chí là “liễu yếu đào tơ”, tiếng nói ít sức mạnh và ít ảnh hưởng hơn họ rất nhiều, thế mà vẫn dám đứng thẳng lưng trước bạo quyền… Gương của những Lê thị Công Nhân, Phạm Thanh Nghiên, Nguyễn Tiến Nam… là những người mới chỉ khoảng 30 tuổi đầu, đã dám đối đáp với bạo quyền với tất cả khí phách của mình, gương đó đang sờ sờ trước mắt họ! Lẽ nào đường đường là những “đấng”, những “ngài”, những “bậc” với tiếng nói “có gang có thép” – lại chấp nhận khom lưng, run sợ bạo quyền tới mức độ không dám hành xử theo lẽ phải, theo lương tâm mình? Lẽ nào lại sẵn sàng làm những điều trái với lương tâm, trái với chủ trương của đạo giáo mình, trái với những lời thề nguyền của mình trước những đấng thiêng liêng (3*) …?

Tôi xin chấm dứt bài này bằng nhận định xác đáng của Gs Nguyễn Ngọc Huy:

Hiện nay, quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ không còn được chánh thức dùng bên trong nước Việt Nam, nhưng mọi người Việt Nam ở quốc nội đều biết rằng nó là lá cờ tượng trưng cho nền độc lập và tự do của Tổ Quốc, chống lại chế độ cộng sản tàn ác, phi nhân và nô lệ ngoại bang. Bên ngoài Việt Nam, nó cũng được người ngoại quốc xem là biểu tượng của phía người Việt Nam chống lại chế độ cộng sản. Không biểu tượng nào khác có thể thay thế cờ vàng ba sọc đỏ về các mặt này. Vậy, việc tỏ lòng tôn trọng Quốc Kỳ nền vàng ba sọc đỏ và dùng nó một cách rộng rãi ở nơi nào có người quốc gia Việt Nam là một công cuộc đóng góp lớn vào việc giải phóng đất nước khỏi ách độc tài Cộng Sản” (4*).

Washington DC, ngày 21/7/2008
Nguyễn Chính Kết

__________________________
Chú Thích:

(1*) Tài liệu “Quốc Kỳ Việt Nam: Nguồn Gốc và Lẽ Chính Thống” của KS Nguyễn Đình Sài (http://lichsuviet.cjb.net/view_article.asp?id=301&cat=3) viết: “Năm 1890, nhà vua [=Thành Thái] xuống chiếu thay đổi quốc kỳ chữ Hán [của thời Đồng Khánh] bằng quốc kỳ mới. Lá cờ nền Vàng Ba Sọc Đỏ lần đầu tiên được cấu tạo và được dùng làm quốc kỳ”. (Note: những chữ trong ngặc móc […] là giải thích của người viết).

(2*) Cũng theo tài liệu trên.

(3*) Trong số những kinh do các vị chức sắc Công giáo đặt ra, kinh “Suy tôn Nữ vương Gia đình” thường được giáo dân đọc trước 1975 có một lời thề nguyền: “Gia đình con xin nguyền không theo thuyết Cộng Sản vô thần! ” Lẽ nào những người soạn ra, những người từng khuyến khích mọi người đọc kinh này lại chóng quên đến thế lời thề nguyền ấy?

(4*) Xem bài “Quốc Kỳ và Quốc Ca Việt Nam của Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy”, phần D (http://www.danviet.net/biensoan/print.asp?Article_ID=61), số 3 §2

Phụ lục:

November 7, 2007

Nhìn Người Mà Nghĩ Đến Ta

Filed under: dân chủ,tự do,Vietnam — tdnl @ 6:04 pm

Vũ An Bài

Tháng sáu vừa qua, nhân chuyến viếng thăm Hoa Kỳ, Chủ tịch CSVN Nguyễn Minh Triết đã tuyên bố ông mang một món quà cho tập thể người Việt hải ngoại. Đó là quyết định kể từ đầu tháng 9 năm 2007, “Việt kiều” về nước sẽ được miễn chiếu khán nhập nội.

Mặc dầu nhiều người đã thừa biết, đối với nhà cầm quyền Cộng sản VN, lời nói và việc làm thường khác nhau rất xa, và ngay cả những thứ được gọi là “quà”, đôi khi cũng khó nhá. Tuy nhiên, thay vì “chỉ trích phủ đầu”, người viết bài này đã đợi xem thực tế ra sao. Mang danh chủ tịch nước, ông Triết nói mang quà đến, chưa biết món quà đó xấu tốt ra sao mà đã vội chê bai, ắt khó tránh khỏi mang tiếng là người nặng thành kiến.

Rồi gần đến tháng 9, lệnh từ Hà Nội ban ra mới vỡ lẽ: Cái gọi là món quà miễn chiếu khán hay hộ chiếu quả nhiên khó nhá. Trước hết, để được miễn chiếu khán, “Việt kiều” phải tới sứ quán Việt Nam xin chứng thực mình là người gốc Việt, phải đóng lệ phí tương đương 20 đô la Mỹ cho mỗi người. Giấy chứng nhận chỉ có hiệu lực trong 5 năm.

Thứ nhì là, theo báo Người Việt ở Cali, có một số “Việt kiều” tại Âu châu và Bắc Mỹ đã than phiền vì gặp rắc rối trong khi nộp đơn xin cấp giấy chứng nhận để được miễn chiếu khán. Có người bên Bỉ phải nộp lệ phí cao hơn mức quy định chính thức. Có người ở Paris bên Pháp, và vùng San Francisco bên Mỹ gửi hồ sơ và thông hành tới sứ quán, đợi nhiều tuần lễ vẫn không được hồi âm, phải liên lạc nhiều nơi dọ hỏi, vẫn không được trả lời.Nếu quả thật nhà cầm quyền Hà Nội muốn dễ dãi với Việt kiều, mà không có một âm mưu nào khác, tại sao vẫn bắt phải xin giấy chứng thực là người gốc Việt? Bởi vì, trên sổ thông hành (passport) của mỗi người, đều có ghi rõ sinh quán là Việt Nam. Và hơn nữa, đã là gốc Việt, thì mãn đời vẫn là gốc Việt, tại sao giấy chứng thực chỉ có hiệu lực 5 năm?

Tôi là người gốc Việt, chẳng có gốc gác gì liên hệ tới Âu châu, nhưng từ Mỹ đã từng đi nhiều nước như Anh, Pháp, Ý, Thụy Sĩ, mà không bao giờ phải xin chiếu khán. Ấy vậy mà nếu muốn đi Việt Nam, dù sau khi được Chủ tịch nước “tặng quà” miễn chiếu khán, vẫn còn phải xin chứng thực lôi thôi. Vậy, Việt kiều được biệt đãi ở chỗ nào?

Ngoài Âu châu, trước đây tôi đã từng đi Thái Lan, cũng không phải chiếu khán hay chứng thực gì hết. Và mới hôm 23 tháng 10 vừa qua, tôi đã nhảy lên máy bay đi Singapore, dù chẳng phải ruột ngắn ruột dài gì với quốc gia tí hon chỉ cách Việt Nam vài giờ bay này, cũng không cần phải xin chiếu khán, hay bất cứ loại giấy tờ nào khác, không cần biết tòa đại sứ nước này nằm chỗ nào. Tới nơi, đương nhiên được quyền lưu lại 90 ngày. Như vậy, rõ ràng tôi đã được các nước khác, cả Âu lẫn Á, đối xử tử tế hơn nhà cầm quyền Việt Nam. Đây là bằng chứng cụ thể cho thấy, nhà cầm quyền VN chỉ hô hào Việt kiều mang tiền về, nói chuyện nhân nghĩa với tặng quà, nhưng thực tế, vẫn xử tệ với Việt kiều.


Nhân chuyến đi Singapore, cũng nên nói một chút tới vài thành tựu của nước này. Chiều 23 tháng 10, chuyến bay của hãng United Airlines, một hãng máy bay Mỹ lớn vào hàng nhất thế giới, từ Washington đi Newark gần New York, một chuyến bay chỉ kéo dài 45 phút, đã bị trễ hơn ba tiếng. Chuyến bay của hãng Singapore Airlines rời Newark đúng 11 giờ đêm, không sớm, không chậm một phút. Chuyến bay dài nhất thế giới qua ngả Bắc cực, lâu 18 tiếng, đáp xuống phi trường Changi của Singapore vào sáng sớm 25 tháng 10. Đây là phi trường đã được xếp vào hạng nhất thế giới liên tục trong nhiều năm qua.

Singapore Airlines cũng được xếp vào hạng nhất thế giới nhờ tận tâm phục vụ khách hàng. Ai đã có kinh nghiệm bản thân so sánh giữa các hãng máy bay khác với Singapore Airlines, mới thấy hãng này xứng đáng được xếp vào hạng nhất. Từ ghế ngồi rộng rãi, ăn ngon, và nhất là sự tận tâm của các tiếp viên phi hành, đều hơn hẳn các hãng khác.

Sáng 25 tháng 10, phi trường Changi tấp nập khác thường, vì Singapore Airlines là hãng hàng không đầu tiên xử dụng lần đầu loại máy bay khổng lồ A 380 trên chuyến bay đi

Sydney, cất cánh vào lúc 8 giờ hơn. Đây là loại siêu máy bay 2 tầng, sải cánh dài bằng một sân túc cầu, với đuôi cao bằng tòa nhà 7 tầng, có thể chở gần 500 hành khách chia thành 3 hạng, mà loại trên hạng nhất là 12 phòng, trang bị ghế bành như phòng khách, và gường ngủ giống như ở khách sạn.

Hôm sau, 26 tháng 10, báo chí loan tin Singapore sắp khởi công xây cất một nhà máy điện chạy bằng ánh sáng mặt trời lớn nhất thế giới, trị giá hơn 6 tỉ đô la, có thể sản xuất một số điện năng bằng ba phần tư tổng số điện năng từ ánh sáng mặt trời trên toàn thế giới.

Mới bốn mươi hai năm trước, khi trở thành quốc gia độc lập vào năm 1965, Singapore không bằng Sàigòn, và lúc bấy giờ, đảng Cộng sản đã cai trị nửa nước Việt Nam hơn 20 năm. Ngày nay, quốc gia tí hon Singapore đứng vào hàng đầu thế giới về nhiều phương diện, như hàng không, giáo dục, tiện nghi, và ít tham nhũng. Trong khi ấy, Việt Nam cũng đứng đầu thế giới về nhiều mặt, nhưng toàn về mặt tiêu cực, như tham nhũng, cửa quyền, dối trá, thiếu trong sáng, và kém hiệu năng.

Lý do nào khiến có sự khác biệt giữa hai nước chỉ cách nhau vài giờ bay? Điều rõ ràng nhất ai cũng có thể thấy, là Việt Nam do Đảng Cộng sản cai trị, còn Singapore thì không.

Vũ An Bài
Singapore, tháng 11.2007

Source:
http://www.vietvungvinh.com/Portal.asp?goto=VietNam/2007/20071104_08.htm
http://tiengnoitudodanchu.org/vn/modules.php?name=News&file=article&sid=4927

September 12, 2007

Thư gởi ông Thủ tướng nước CHXHCNVN Nguyễn Tấn Dũng của một công dân Việt Nam

Filed under: dân chủ,tự do,Vietnam — tdnl @ 3:31 pm

Kính thưa ông Thủ tướng,
Nhân dịp ông đến Hoa kỳ để họp Hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, tôi viết thư này gởi đến ông với tất cả sự chân thành của một công dân Việt Nam tha thiết với tiền đồ Tổ quốc. Hy vọng rằng với tinh thần thẳng thắn không né tránh, ông sẽ tìm ra được hướng đi chung hầu xây dựng cho quê hương đất nước đúng với con đường tiến hóa của toàn cầu trong sự phát triển và tiến bộ mà toàn dân đang mong đợi.

Kính thưa ông,
Lịch sử Việt Nam cũng từng chứng minh rằng trong qúa khứ các tiền nhân của chúng ta trên con đường xây dựng nước, cũng có các triều đại vua và quan đều yêu dân mến nước, biết lắng nghe ý kiến của nhân dân để chiến thắng quân thù, điển hình là các triều đại của vua quan nhà Trần và hội nghị Diên Hồng đã vang danh trong sử sách. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những vì vua bất tài vô dụng chỉ biết hưởng thụ cho riêng mình, sẵn sàng đi theo ngoại bang khiến cho đất nước lầm thang và nhân dân ta thán như trường hợp của triều đại Lý Công Uẩn và Lê Chiêu Thống…v.v…

Hôm nay nhìn lại những sự thật qúa đau lòng đã và đang xảy ra hàng ngày trên đất nước khiến cho biết bao người dân phải ngậm ngùi rơi lệ. Một quần đảo Hoàng Sa trên vùng biển xa xôi của Tổ quốc, một Ải Nam Quan địa đầu giới tuyến trong đó có thác Bản Giốc danh lam thắng cảnh của quê hương đang nằm trong bàn tay của Trung quốc, và hiện nay quần đảo Trường Sa còn lại cũng đang lâm nguy vì bậc đàn anh vĩ đại mà ĐCSVN đã tôn thờ. Tại sao chính quyền không dám công khai bạch hóa vấn đề Hoàng Sa và Hiệp định biên giới về Ải Nam Quan cho toàn dân biết, trong khi hàng ngày vẫn tuyên truyền là “dân biết, dân làm, dân kiểm tra”?

Tôi còn nhớ là trong lần trực tuyến với đồng bào trong các câu hỏi mà ông chọn ra để trả lời, ông có noí rằng: Ðiều ông ưa thích nhất là sự trung thực, điều ông ghét nhất là sự giả dối. Nghe câu nói này của ông ai ai cũng thích, bởi vì đã từ lâu lắm rồi nhân dân Việt Nam mới được nghe một vị lãnh đạo trẻ của một đất nước theo chủ nghĩa Cộng sản có con du học ở một đất nước tự do Hoa Kỳ nói ra một câu rất chân tình, nhất là khi mới nhậm chức ông là người tuyên bố quyết tâm đi theo con đường đổi mới và cương quyết chống tham nhũng.

Nhưng rồi với những gì đã và đang xảy ra trong suốt thời gian kể từ ngày ông nhậm chức, tình hình tham nhũng vẫn không có gì được cải thiện khiến cho đoàn người dân oan khiếu kiện càng ngày càng đông, một thực tế rõ ràng đa số dân oan khiếu kiện là những người có công với đảng, đã từng công hiến cả cuộc đời cho đảng, đã từng hy sinh những đứa con thân yêu nhất cho đảng để ông và những cán bộ lãnh đạo khác có được địa vị như ngày hôm nay. Những cụ gìa chân yếu tay mềm đúng ra phải được ở nhà để vui hưởng cảnh thanh nhàn trong giai đọan cuối đời, những đứa trẻ thơ vô tội đáng lẽ phải được hồn nhiên vui chơi và được cấp sách đến trường như bao đứa trẻ khác, nhưng trái lại bây giờ họ phải ngậm đắng nuốt cay để dầm sương dãi nắng trên các vỉa hè không nơi nương tựa trước sự thờ ơ của các giới chức có thẩm quyền nhưng miệng lúc nào cũng tự nhận là “đầy tớ trung thành của nhân dân”. Thử hỏi những con người có bề dày đấu tranh với đảng như thế thì có ai mà xách động và xuí giục cho được. Trước cảnh khổ đau và tang thương như thế đã không lay động được lương tâm của các cấp chính quyền, nhất là sự thờ ơ của các nhà tu hành trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam đang lợi dụng chiềc aó cà sa, núp dưới giáo lý nhà Phật để giữ vững địa vị của mình trong các ngôi chùa khang trang đẹp đẽ dưới sự quản lý và kiểm soát của các cấp chính quyền, cũng như được yên ổn trong các chức vụ đại biểu quốc hội, hội đồng nhân dân, uỷ viên mặt trận..v.v…, khiến cho lòng từ bi cứu khổ của các vị Hoà thượng, Thượng tọa, Đại đức, tăng ni trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất (GHPGVNTN), một giáo hội đã đi vào lòng dân tộc nhưng không được chính quyền CSVN công nhận phải ra tay cứu khổ.

Trong những ngày vừa qua cả hệ thống phát thanh truyền hình cùng báo chí và thông tấn xã Việt Nam đã đồng loạt công kích, vu khống và bôi nhọ GHPGVNTN trong việc cứu tế dân oan, đây là việc làm vô nhân đạo không xứng đáng là cơ quan ngôn luận và truyền thông đại chúng của một đất nước tự cho mình là dân chủ văn minh. Việc đưa những vị tu sĩ quốc doanh lên tiếng đả kích là việc làm không quang minh chánh đại. Chắc chắn việc làm này sẽ không bao giờ được nhân dân và toàn thể tín đồ Phật giáo Việt Nam đồng tình, lại càng bị quốc tế phê phán. Hoà thượng Thích Quảng Độ cùng quý tăng ni trong GHPGVNTN là những bậc chân tu đã can đảm đứng ra cứu độ chúng sanh không phân biệt thành phần và giai cấp theo đúng tinh thần Bi, Trí, Dũng của Đức Phật.

Sự cứu tế dân oan của GHPGVNTN cũng bao gồm luôn cả những người có công xây dựng đảng nhưng đã bị đảng lãng quên và trù dập, các chư tôn đức trong GHPGVNTN hàng ngày đang bị bao vây và cô lập thì làm sao có điều kiện để kích động và xuí giục ai theo như những gì mà các cơ quan truyền thông, báo chí và chính quyền loan báo? Vấn đề khiếu kiện của dân oan đã từng xảy ra hàng chục năm do cán bộ có chức quyền của đảng đã cướp đi tài sản của họ một cách bất công, muốn giải quyết chuyện dân oan để không còn ai khiếu kiện nữa thì các cơ quan có thẩm quyền của đảng nên mạnh dạn nhận sai lầm và đền bù thỏa đáng cho người dân chớ đừng có chụp mũ và đổ lỗi cho ai hết.

Chúng tôi rất đau lòng khi phải nói lên lời phê phán đối với những vị đội lốt nhà tu lợi dụng tôn giáo để hưởng mùi vinh hoa phú quý, kể cả Hội đồng Giám mục Công giáo Việt Nam đã làm ngơ trước cảnh tượng Đức Mẹ Sầu Bi bị chính quyền sở tại đập vỡ tan tành và vụ việc LM Nguyễn Văn Lý bị bịt miệng trước phiên tòa ngày 30/03/2007 tại Huế, cũng như im lặng trước nỗi đau chung của toàn dân.

Tất cả những chuyện vu khống, bịa đặt của các cơ quan và chính quyền do ông lãnh đạo vô tình đã làm cho uy tín của chư tôn đức tăng ni trong GHPGVNTN tăng thêm bởi vì sự thật vẫn là sự thật. Ngoài việc vu khống và đàn áp GHPGVNTN, chính quyền do ông lãnh đạo còn dùng lực lượng công an, mật vụ và quân đội đàn áp thẳng tay các nhà đấu tranh cho nhân quyền, tự do dân chủ một cách ôn hòa. Việc làm này đã ngang nhiên chà đạp lên Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền của LHQ đã được cả thế giới công nhận mà Việt Nam là một thành viên, nó cũng vi phạm luôn các quyền của các công ước quốc tế về dân sự và chính trị mà VN cũng đã từng xin tham gia và cam kết thi hành, hơn nữa chính Hiến pháp của VN (điều 69) cũng công nhận.

Gán ghép điều 88 với tội danh tuyên truyền chống nhà nước để bắt bớ giam cầm các nhà bất đồng chính kiến với đảng là hoàn toàn không đúng, việc đồng hóa ĐCSVN với nhà nước VN là sai trái bởi vì ĐCSVN chỉ là một thành phần nhỏ trong cộng đồng dân tộc với 85 triệu người. Điều 4 Hiến pháp do đảng đặt ra để tự khẳng định là đảng có quyền lãnh đạo đất nước muôn năm là hoàn toàn không đúng với ý muốn của toàn dân và đi ngược lại trào lưu tiến bộ của loài người.

Thưa ông thủ tướng,
Chắc ông cũng biết rằng hơn 60 năm qua ĐCSVN đã dùng đường lối độc tôn để lãnh đạo đất nước gây ra không biết bao nhiêu những tang thương đau khổ cho toàn dân. Cuộc cải cách ruộng đất năm (1954-1956) với hơn 300 ngàn người dân vô tội phải bị chết oan để rồi chỉ nhận được có lời xin lỗi của ông Hồ Chí Minh, tiếp theo đến cuộc thanh trừng những thành phần trí thức trong phong trào Nhân văn Giai phẩm, rồi đến việc ký tên nhượng bộ quần đảo Hoàng Sa cho Trung quốc năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, và hiệp định về ranh giới làm mất đi phần lớn Ải Nam Quan vùng đất thân yêu địa đầu của Tổ quốc cuối năm 1999. Ðây là vết nhơ và nỗi đau chung của dân tộc mà ĐCSVN sẽ trả lời ra sao cho trường hợp này?

Trong suốt thời gian từng năm tháng trôi qua, ĐCSVN đi đến đâu là gieo tang tóc đau thương đến đó, những mồ chôn tập thể được tìm thấy ở Huế sau Tết Mậu Thân 1968 khi bộ đội CS của ông bắt buộc phải rút lui trước sự quyết tâm tái chiếm lại Huế của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Sau ngày chiếm được miền Nam những tưởng với cuộc sống sung túc và khá gỉa của nhân dân miền Nam sẽ làm cho các nhà lãnh đạo ĐCSVN phải thay đổi tư duy để nhìn lại chính mình, nhưng ngược lại hàng ngũ lãnh đạo của đảng đã không nhìn ra được sự thật để đưa đất nước tiếp tục đi lên và nhân dân thêm no ấm.

Sau ngày 30/04/1975 với những chính sách tịch thu ruộng đất và tài sản của những người mà đảng cho là thành phần xấu rồi chia nhau xài dưới danh nghĩa đánh tư sản mại bản, tập trung dân thành thị vào các vùng được mệnh danh là kinh tế mới với đồng khô cỏ cháy, bắt buộc mọi người phải vào hợp tác xã trong mọi ngành nghề với kiểu làm ăn tập thể dưới sự chỉ đạo của những thành phần dốt nát nhưng được đảng tin dùng, áp dụng chính sách gía, lương, tiền và nhất là triệt tiêu chất xám của các con em thuộc thành phần làm việc cho chế độ Việt Nam Cộng Hòa, cùng với sự chia chác nhau hết 16 tấn vàng thuộc tài sản quốc gia của miền Nam rồi đổ lỗi cho Tổng thống Thiệu mang đi …v.v…(rất may sau loạt bài vàng đổi chủ của tờ báo Tuổi Trẻ ngày 30/4 và 1/5/2006 ghi lại cuộc bàn giao 16 tấn vàng từ nhân viên ngân hàng của VNCH cho Uỷ ban quân quản đã minh oan được phần nào cho vong hồn của TT Thiệu nơi chín suối).

Tất cả những việc làm của ĐCSVN sau ngày chiến thắng đã gây ra cái hậu qủa tệ hại mà ngày nay đất nước và nhân dân phải gánh chịu. Tham nhũng tràn lan khắp mọi miền đất nước, tiêu cực và gian lận trong mọi ngành mọi công việc đã trở thành một câu chuyện dài không có hồi kết thúc, chất xám và tài năng tuổi trẻ Việt Nam đang bị hao mòn bởi vì cơ chế độc quyền, hận thù và xét lý lịch của các cơ quan nhà nước khiến cho tài năng đa số phải cống hiến cho các công ty kinh doanh của nước ngoài làm ăn tại Việt Nam, một bằng chứng hiển nhiên mà mọi người đều công nhận là những bằng cấp chuyên tu tại chức, học từ xa tuy rằng bằng cấp kiểu này không có thực tài nhưng không bao giờ thất nghiệp bởi đa số là có gốc và chức quyền, bởi vậy cho nên trong nhân dân mới có câu: “dốt như chuyên tu, ngu như tại chức”. Cũng rất may là các công ty xí nghiệp quốc doanh nơi tự do xài tiền đóng thuế của dân bị giải thể gần hết chớ nếu không thì dân sẽ còn khổ dài dài nữa, tuy nhiên đây chỉ là một kế sách của ĐCSVN nhằm hợp thức hóa sự giàu sang của các cán bộ đảng viên cao cấp khi với số tiền bất minh có được giờ đây được tự do kinh doanh và làm kinh tế riêng, vì thế cho nên tại Việt Nam ngày nay những thành phần giàu có đa số là những con người của đảng được gọi là tư bản đỏ, còn đại đa số nhân dân thì vẫn cam phận trong cảnh nghèo nàn phải cho con đi ở đợ và làm lao động cho các công ty nước ngoài với đồng lương rẻ mạt bị bóc lột mà không ai bênh vực, đây là một thực tế qúa rõ ràng dù cho ĐCSVN có thổi phồng và che dấu thì vẫn không thể nào xóa bỏ được.

Kính thưa ông,
Chắc ông cũng biết rằng quy luật tất nhiên của loài người để cùng nhau tiến bộ là phải có cạnh tranh. Trong lớp học có cạnh tranh thì mới tìm được học sinh giỏi, trên đồng ruộng có cạnh tranh thì mới biết người nông dân giỏi, trên thương trường có cạnh tranh thì mới tìm ra được những tác nhân có tư duy sáng tạo để phát triển thành công mô hình kinh doanh..v.v.. Kể từ khi Việt Nam mạnh dạn từ bỏ kiểu làm ăn lỗi thời của chủ nghĩa xã hội để qua đường hướng kinh tế thị trường có cạnh tranh của tư bản chủ nghĩa thì nền kinh tế VN có phần khá hơn, nhân dân nhờ từ bỏ con đường tập thể chuyển qua cá thể mà cuộc sống đã đở hơn nhiều mặc dù sự tiến bộ hiện tại là bấp bênh bởi vì nền kinh tế của đất nước hiện nay đều nằm trọn vào lối kinh doanh hợp tác của các công ty nước ngoài, nhưng dù sao đây cũng là một tín hiệu đáng mừng vì nó như là ánh sáng dẫn dắt ta đi trong đêm dài đen tối. Ðiều này đã khẳng định cho chúng ta thấy rằng kinh tế thị trường có cạnh tranh là hiện thực, là quy luật tất yếu của loài người mà đại đa số các nước trên thế giới đang theo.

Tuy nhiên, quy luật tiến bộ sẽ không bao giờ có định hướng xã hội chủ nghĩa bởi vì định hướng XHCN là không có cạnh tranh về chính trị, mà nếu đất nước không có nền dân chủ đa nguyên để cạnh tranh cho nhân dân được tự do chọn lựa người tài phục vụ cho mình và cho đất nước thì đất nước đó sẽ không bao giờ có tiến bộ, bởi vì mọi quyền lực đã được tập trung vào sự cai trị của một thiểu số người trong đảng lãnh đạo mà nhân dân không có quyền chọn lựa.

Tình trạng độc tài, độc đoán, tham nhũng thối nát, đục khoét của công, tự do nhũng nhiễu dân, tự do hành hạ và cướp giựt của dân, tự do tiêu cực và bè phái để trục lợi cá nhân ..v.v…, là chuyện tất yếu sẽ xảy ra, điển hình là tình trạng Việt Nam ngày nay mà tôi tin chắc rằng ông đã biết rõ. Nhưng nếu trong một đất nước dân chủ tự do với hệ thống đa nguyên có cạnh tranh thì những chuyện như trên sẽ không bao giờ xảy ra bởi vì các thành phần lãnh đạo sẽ không có cơ hội để thực hiện những hành vi đen tối đó.

Với hệ thống đa nguyên thì quyền ứng cử sẽ không qua sự chọn lựa của bất cứ một đảng phái nào hết và nhân dân sẽ có quyền tự do bầu ra những người có thực tài để đại diện cho mình và lãnh đạo đất nước, những đảng phái thất cử sẽ trở thành đối lập để cùng với toàn dân kiểm soát mọi việc làm của chính quyền và nếu chính quyền làm không tốt những gì đã hứa khi đắc cử thì chắc sẽ bị thất cử trong lần bầu cử sau. Quân đội và các lực lượng vũ trang là để phục vụ an ninh trật tự cho nhân dân và bảo vệ Tổ quốc chớ không phục vụ cho bất cứ một đảng phái chính trị nào hết dù đảng đó là đảng cầm quyền.

Trong chính quyền lãnh đạo đất nước cũng có những người thuộc các đảng phái đối lập với đảng cầm quyền bởi vì quyền chọn lựa trong các kỳ bầu cử người đại diện cho nhân dân trong các cơ quan quyền lực là quyền tự do chọn lựa của nhân dân. Ngân sách quốc gia do dân đóng thuế chỉ để phục vụ cho những công trình phúc lợi, những chương trình ích quốc lợi dân và trả lương cho cán bộ công nhân viên chức cùng những thành phần phục vụ cho lợi ích chung của nhân dân và đất nước, chớ không dùng để phục vụ quyền lợi cho bất cứ một đảng phái nào hết cho dù là đảng cầm quyền.

Tiền để phục vụ cho đảng được tồn tại là do chính đảng đó tự tạo ra bằng con đường lương thiện như bao nhiêu người khác, chớ không phải như Việt Nam hiện nay đảng đang độc quyền tự do xài tiền của nhân dân mà dân không được quyền phản đối. Có bất công không khi chỉ có hơn 3 triệu đảng viên cộng sản mà phải bắt buộc gần 85 triệu con người Việt Nam còn lại phải tuyệt đối phục tùng và trung thành với đảng, phải chấp nhận cái hiến pháp và luật pháp chồng chéo bất công vô lý mà đảng tự đặt ra chẳng hạn như: điều 4 HP quy định ĐCSVN là lực lượng duy nhất cai trị đất nước?.

Bỏ điều 4 Hiến pháp để thực hiện chế độ đa nguyên, đa đảng không có nghĩa là ĐCSVN bị triệt tiêu như ông Nguyễn Minh Triết đã phát biểu tại Tổng cục chính trị vừa qua, chắc có lẽ ông Triết khi phát biểu câu “Bỏ điều 4 HP là đồng nghĩa với tự sát” ông đã biết rất rõ hiện tại nhân dân VN đã chán nản đường lối cai trị của đảng qúa rồi. Trong khi chuyến công du ở Mỹ, ông Triết tuyên bố với quốc tế rằng: “Chuyện bất đồng chính kiến là bình thường”, nhưng khi về nước thì ông lại nói bỏ điều 4 HP là đồng nghĩa với tự sát, điều này chứng tỏ rằng lời nói của các nhà lãnh đạo ĐCSVN là để đối phó với tình hình chớ không bao giờ thật tâm cả.

Tôi xin ông thủ tướng nên hiểu một thực tế là với chế độ dân chủ đa nguyên thì ĐCSVN vẫn có quyền hoạt động công khai ngang hàng với các đảng phái khác, nếu đường lối của ĐCSVN phù hợp với ý nguyện của nhân dân như đảng đã từng tự hào thì sẽ được nhân dân tín nhiệm qua cuộc bầu cử tự do công bằng, khi đó đảng vẫn có quyền lãnh đạo đất nước, nhưng nếu thất cử thì đây là kinh nghiệm để cho đảng tự nhìn lại chính mình mà có kế sách tốt hơn cho những lần bầu cử sau. Trong kiếp sống vô thường của vạn vật và định luật nhân qủa mà Đức Phật đã tìm ra thì con người sẽ phải chịu trách nhiệm cùng các hành động và việc làm của chính mình.

Cá nhân của ông, tôi và tất cả mọi người rồi đây cũng phải chết, khi đó chúng ta sẽ không bao giờ đem theo những công danh sự nghiệp và vật chất mà mình tạo ra, nhưng chúng ta sẽ đem theo những cái ác và thiện để phải chịu kết qủa của những cái ác và thiện đó trong tương lai mà chúng ta không biết trước được, tôi tin chắc rằng ông sẽ hiểu ra được vấn đề này. Tại sao ngày nay khi nhắc đến Lê Chiêu Thống thì người ta cho là “cõng rắn cắn gà nhà”, là bán nước.

Nhưng nếu nhắc đến các triều đại vua Trần thì nhân dân đều ca tụng và tôn sùng, ông tự suy gẫm lại coi trên thế giới ngày nay còn bao nhiêu nước theo chủ nghĩa độc quyền lãnh đạo như VN?, có nước nào theo thể chế đa nguyên từ kinh tế lẫn chính trị mà nghèo hơn độc đảng không?, có nước nào trong hệ thống XHCN như VN mà không cần đến sự giúp đỡ của các nước dân chủ tự do theo thể chế đa nguyên không?

Tục ngữ Việt Nam có câu “hùm chết để da, người ta chết để tiếng”. Hy vọng rằng cá nhân ông sẽ không bao giờ muốn để cho người đời nguyền rủa. Cựu Tổng bí thư ÐCS Liên sô Mikhail Gobachev khi nhìn ra được lẽ thật đã từ bỏ chủ nghĩa cộng sản để cho nhân dân và đất nước của ông ta được tự do, cũng như tiếp theo sau đó cả khối cộng sản Ðông Âu cũng noi theo gương ông. Ngày 12/03/2002 tại trường đại học Columbia ông Gobachev đã phát biểu: “Đảng Cộng sản mà tôi phục vụ cả đời chỉ biết tuyên truyền. Cán bộ đảng chỉ biết điêu ngoa gỉa dối. Chúng tôi trong đó có tôi từng nói tư bản đang đi đến sự hủy diệt trong khi chúng ta đang phát triển tốt, lẽ dĩ nhiiên đó chỉ là những lời tuyên truyền. Trên thực tế quốc gia chúng tôi đang bị bỏ rơi ở đàng sau”.

Tại Việt Nam ông Nguyễn Hữu Thọ (chủ tịch Mặt trận Giải phóng Miền Nam trước 1975) lúc lâm chung đã viết thư cho con: “Bài học thất bại trong cuộc đời làm cách mạng của cha là chọn lầm lý tưởng cộng sản và chủ nghĩa cộng sản. Nhưng điều đáng lên án nhất của cha là tính cách phục tùng đến hèn nhát đối với những mệnh lệnh phi nhân, bất nghĩa của tập đoàn lãnh tụ độc tài chuyên chính đã mất hết tình tự dân tộc”. Còn rất nhiều những câu nói muộn màng của những lão thành cách mạng mà tôi chưa viết ra hết bởi vì thư cũng khá dài. Với tinh thần thẳng thắn tôi xin ông nên suy nghĩ lại con đường và hướng đi của mình.
Thân aí chào ông

Việt Nam ngày 11/9/2007
Hoàng Trung Việt

free hit counters
free hit counters

Blog at WordPress.com.