Tự Do Ngôn Luận cho VN

October 26, 2010

BỨC THƯ CHUNG KHÔNG GỞI

Filed under: dân chủ,Tôn Giáo,tự do,Vietnam — tdnl @ 4:50 am

VietCatholic News (23 Oct 2010 09:45)

LTT: Đây chỉ là một tài liệu giả tưởng, được hư cấu để chuyển tải một sứ điệp tư riêng của cá nhân. Vì thế, nội dung và chủ đích không liên hệ gì tới Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Trần Khánh Hòa

Đồng bào Việt Nam kính mến,

Anh chị em tín hữu Công Giáo Việt Nam thân yêu,

Chúng tôi, toàn thể các thành viên của HĐGMVN, có mặt cũng như vắng mặt trong cuộc Đại Hội lần thứ XI (từ ngày 4-6.10.2010), xin kính chuyển đến toàn thể quốc dân đồng bào Việt Nam và toàn thể anh chị tín hữu Công Giáo Việt Nam lời chào chúc kính mến và đầy thân ái trong tình thương hiệp nhất huynh đệ của Chúa Kitô.

Lời đầu tiên trong Bức Thư Chung đặc biệt nầy, chúng tôi xin được hiệp lời cùng toàn Dân Chúa kính dâng lên Thiên Chúa lời tri ân cảm tạ vì muôn vạn hồng ân Chúa đã thương ban cho dân tộc và đất nước chúng ta, đặc biệt cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam trải qua bao thăng trầm suốt hơn 400 năm kể từ khi cha ông ông chúng ta đón nhận Tin Mừng vẫn tồn tại và không ngừng phát triển mà việc cử hành Năm Thánh 2010 như là một điểm qui chiếu cần thiết và đầy ý nghĩa.

Chúng tôi, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, một cơ cấu mà cách đây đúng 50 năm (24.11.1960), đã được Đức Chân phước Giáo Hoàng Gioan XXIII thiết lập, như một dụng cụ “thích thời và tối lợi” [1]để phục vụ đồng bào và Dân Chúa Việt Nam thân yêu, xin được đồng thanh dâng lên Chúa tâm tình tri ân cảm tạ cùng lòng sám hối ăn năn. Cảm tạ vì quảng đường 50 năm đồng hành cùng Dân tộc và Giáo Hội tại Việt Nam trong tư cách là những chủ chăn để chăm sóc và hướng dẫn cuộc hành trình đức tin của mọi thành phần Dân Chúa; ăn năn sám hối vì bao nhiêu thiếu sót, lỗi lầm mà trong thân phận con người, chúng tôi đã không tránh khỏi, đã khiến làm giảm đi bao nhiêu cơ hội để Dân Chúa được nhờ, Dân tộc được lợi.

Trong lần Đại Hội lần thứ XI quan trọng nầy: cuộc Đại Hội Giám Mục Việt Nam chuẩn bị cho 2 biến cố trọng đại của Năm Thánh 2010: Đại Hội Dân Chúa (cuối tháng 11.2010) và Bế Mạc Năm Thánh (đầu tháng 1.2011), chúng tôi muốn được ngỏ lời với Quốc dân đồng bào và với anh chị em tín hữu Công Giáo Việt Nam những điều hệ trọng đang là mối ưu tư trăn trở của tất cả những ai là những người Việt Nam ái quốc và những tín hữu Công giáo trung thành với căn tính kitô hữu của mình.

1. Trước hết, chúng tôi muốn khẳng định một lần nữa “mệnh lệnh” và “quyền” mà chúng tôi đã lãnh nhận từ Chúa Kitô, đó là: “dạy dỗ mọi dân nước, thánh hóa mọi người trong chân lý và chăn dắt họ” [2].

Vì mang thân phận con người với những giới hạn và bất toàn, chúng tôi rất ý thức rằng: chúng tôi chưa thực thi đến nơi đến chốn mệnh lệnh và quyền đã được Chúa Kitô trao phó; nhất là trong những giai đoạn và thời điểm mà Đất Nước và Giáo Hội cần được soi sáng và định hướng bởi việc thực thi mệnh lệnh và uy quyền nầy. Vì thế, chúng tôi xứng đáng lãnh nhận những lời trách móc và phàn nàn về thái độ “im lặng khó hiểu của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam” đến từ nhiều thành phần trong Dân Chúa và từ những anh chị em thiện chí khác không chia sẻ cùng một niềm tin.

Tuy nhiên, chúng tôi thiết tưởng: sau khi đã lắng nghe và “biện phân” [3] đủ mọi ý kiến và phản ảnh về các vấn đề hệ trọng đến vận mệnh của Đất Nước và Giáo Hội, thời điểm nầy mới thật chín mùi và cần thiết để chúng ta cùng nói lên những quan điểm, tâm tư cùng nguyện vọng chính đáng của những người công dân Việt Nam ái quốc và của những tín hữu Công Giáo Việt Nam trưởng thành và trách nhiệm.

2. Quan điểm và nguyện vọng của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam trước các vấn đề nghiêm trọng liên quan đến sự tồn vong và phát triển của Tổ Quốc.

Đại diện cho cộng đồng tín hữu Công Giáo Việt Nam và liên đới với mọi thành phần công dân Việt Nam trong và ngoài nước, những người đang có chung một ước nguyện và thiện chí xây dựng một đất nước Việt Nam phồn vinh, dân chủ và độc lập, chúng tôi, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tuyên bố:

a/. Đã đến lúc Đất nước Việt Nam cần một thể chế chính trị đa nguyên dân chủ, thể hiện ý chí, ý muốn và nguyện vọng của toàn dân tộc. Chỉ có thể chế nầy mới tạo được một guồng máy lãnh đạo hiệu quả, đẩy lùi tệ hại tham nhũng, tập họp sức mạnh của toàn dân, thoát khỏi áp lực của ngoại bang, gìn giữ sự tồn vong và bảo đảm sự phát triển dài lâu cho Tổ Quốc. Một thể chể chế chính trị độc tài-đảng trị sẽ dẫn Tổ Quốc đến chỗ lầm than, lòng người ly tán, tham nhũng hoành hành và khiếp nhược trước áp lực của ngoại bang.

b/. Đã đến lúc xã hội Việt Nam cần một bầu khí tự do, trong sáng, cởi mở, không bị trói buộc bởi một ý thức hệ, một chủ thuyết hay một tín ngưỡng tôn giáo nào. Hãy trả lại cho môi trường giáo dục-học đường bầu khí lành mạnh, vui tươi, hướng thiện và bồi đắp toàn diện con người mang bản sắc dân tộc và tiếp thu chọn lọc những tiến bộ và văn minh của thế giới. Hỗ trợ và tạo điều kiện để các tôn giáo phát triển, xích lại gần nhau và cùng tích cực đóng góp vào thiện ích chung. Đưa ý thức hệ Mác-Lê, tư tưởng Bác Hồ vào đúng vị trí trong kho tàng những đóng góp quý báu của tư tưởng nhân loại để tham khảo chứ không phải để áp đặt lên toàn bộ sinh hoạt chính trị-xã hội.

c/. Đã đến lúc người dân Việt Nam cần được hưởng và thực thi những quyền tối thượng của con người đã được nêu trong Tuyên Ngôn Nhân Quyền của Liên Hiệp Quốc. Đặc biệt, trong bối cảnh Việt Nam hôm nay, quyền được phát biểu và bảy tỏ lập trường, chính kiến, ý kiến phản biện… phải được tôn trọng. Phải trả tự do cho những người thành tâm thiện chí tranh đấu cho lẽ phải, dân chủ, nhân quyền và bênh vực độc lập chủ quyền cho Đất Nước. Văn hóa, văn học, báo chí, sách vở…chỉ có thể phát triển lành mạnh, đúng hướng trong một môi trường xã hội cởi mở, khoan dung, tự do và dân chủ.

d/. Đã đến lúc môi trường sinh thái của Đất Nước cần được chăm sóc và bảo vệ nghiêm túc. Dừng lại tức khắc những dự án khai thác mang nguy cơ hủy hoại, tàn phá môi trường, đe dọa sự sống, gây hậu quả thiên tai và đại họa cho các thế hệ tương lai…(Như dự án khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, các dự án thủy lợi bất hợp lý, dự án điện hạt nhân không cần thiết…). Cùng với việc bảo vệ thiên nhiên, môi trường, đó là việc bảo vệ chăm sóc đời sống của nông dân và công nhân lao động, môi trường định cư và sinh kế cho các đồng bào dân tộc thiểu số. Bất cứ chương trình qui hoạch nào cũng phải nhắm đến lợi ích ưu tiên cho người nghèo và sự hưởng dụng công bình tài nguyên, lợi tức trong xã hội.

e/. Đã đến lúc mạnh mẽ khẳng định chủ quyền và cương quyết bảo vệ hiệu quả lãnh địa, lãnh hải của Tổ Quốc. Quyền lợi và sự tồn vong của Đất Nước, Dân Tộc phải vượt lên mọi mưu đồ quyền lợi của phe đảng và những âm mưu chính trị mang tính ý thức hệ hay đảng phái. Quân đội là sức mạnh của dân tộc và có mục tiêu bảo vệ Đất Nước khỏi ngoại xâm chứ không bao giờ trở thành lực lượng bao che cho sự lộng quyền của phe đảng chính trị. Cần phát huy sức mạnh và sự tự hào dân tộc cho giới trẻ, học sinh, sinh viên, phát triển công nghệ quốc phòng hợp lý, song song với một nền ngoại giao khôn ngoan và uyển chuyển, tranh thủ sự tín nhiệm và hỗ trợ của mọi quốc gia và tổ chức quốc tế.

Khi tuyên bố 5 điều trên, Hội Đồng Giám Mục Việt nam muốn thể hiện cụ thể và tích cực tinh thần đồng hành và hội nhập của Giáo Hội theo đúng giáo huấn của Công Đồng Vatican II[4], theo tinh thần của bức Thư Chung 1980[5] của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và nhất là theo định hướng của Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI trong thông điệp xã hội Caritas in veritate mới được ban hành ngày 7.7.2009:

“Giáo hội không đưa ra những giải pháp kỹ thuật [10] và cũng không đòi hỏi “nhúng tay vào chính trị của Nhà Nước bằng bất cứ cách nào” [11]. Dù vậy, Giáo hội phải chu toàn trong mọi thời gian và mọi hoàn cảnh sứ mạng phục vụ chân lý nhằm xây dựng một xã hội xứng với con người, với phẩm giá và ơn gọi của họ.”[6]

3. Định hướng mục vụ cho Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam

Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam đã khai mạc Năm Thánh 2010 vào ngày 24.11.2009 để long trọng mừng hai biến cố: 350 năm thành lập hai giáo phận Tông Tòa đầu tiên tại Việt nam (1659-2009) và 50 năm thành lập hàng Giáo Phẩm Việt Nam (1960-2010). Và như vậy, cộng đoàn Dân Chúa Việt Nam đã đi gần tới cuối chặng đường Năm Thánh với hai biến cố quan trọng sắp được cử hành: Đại Hội Dân Chúa tại thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 21-25.11.2010 và đại lễ Bế Mạc năm Thánh là Trung Tâm Đức Mẹ La Vang từ ngày 4-6.1.2011.

Cùng với mọi thành phần tín hữu Công Giáo Việt Nam, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chúng tôi hy vọng rằng, từ kết quả của Năm Thánh, Giáo Hội Việt nam sẽ tìm ra những định hướng mục vụ đúng đắn và thích hợp cho cuộc hành trình sống đạo của những tháng ngày tiếp theo.

Như vậy, để có được những kết quả thiêng liêng và mục vụ như lòng Chúa mong muốn hầu đáp ứng các yêu cầu và khát vọng của mọi thành phần trong và ngoài Giáo Hội, cũng như để góp phần xây dựng một Đất Nước Việt Nam giàu mạnh, một Giáo Hội Việt Nam năng động trưởng thành, điều cần thiết hôm nay và lúc nầy đó chính là:

a/. Sự nỗ lực của tất cả chúng ta, các giám mục, linh mục, tu sĩ, chủng sinh và mọi thành phần Dân Chúa, cải biến cuộc sống cho càng ngày nên giống Chúa Kitô, đặc biệt trong đời sống cầu nguyện, khó nghèo và bác ái,[7] để như lời khuyến dụ của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI trong Sứ điệp gửi Đức cha Chủ tịch HĐGMVN nhân dịp Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam:

“…nhằm mang tới cho toàn thể xã hội Việt Nam những giá trị Phúc Âm như bác ái, chân lý, công bằng và ngay thẳng. Nếu chúng ta sống các giá trị này theo gương Chúa Kitô, thì chúng sẽ mang một chiều kích mới mẻ, vượt xa hơn ý nghĩa luân lý theo truyền thống như người ta thường hiểu, khi mà các giá trị ấy bén rễ sâu vào Thiên Chúa là Đấng luôn ước mong điều thiện hảo cho mọi người và muốn cho mọi người được hạnh phúc.”[8]

b/. Tích cực tham gia xây dựng Giáo Hội trong tinh thần trách nhiệm và khoan dung bằng những việc làm cụ thể, những ý kiến xây dựng, những đóng góp quảng đại đáp ứng mọi yêu cầu và mọi sinh hoạt của Giáo Hội Việt Nam. Cuộc Đại Hội Dân Chúa sắp tới sẽ là một cơ hội thuận lợi và thích hợp để tất cả mọi thành phần Dân Chúa thể hiện chiều kích tham gia và hiệp thông như định hướng và ước nguyện của Năm Thánh 2010. Đặc biệt, chúng tôi sẵn sàng đón nhận và lắng nghe những ý kiến góp ý của anh chị em về cơ cấu tổ chức, cách điều hành và hoạt động của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam để trong những ngày sắp tới Hội Đồng Giám Mục Nam có được một cơ cấu tổ chức tốt hơn, một cách điều hành linh hoạt hơn và một chương trình làm việc năng động và hiệu quả hơn. Trong dịp nầy, chúng tôi cũng xin thông báo cùng anh chị em một vài thay đổi nhỏ về nhân sự trong Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (như danh sách được đính kèm).

c/. Trong khi Bức Thư Chung nầy được gởi đến anh chị em thì cùng lức một số tỉnh Miền Trung thân yêu như Thừa Thiên-Huế, Quảng Trị, Quảng Bình, Hà Tỉnh, Nghệ An đang đối diện với thiên tai lũ lụt mang theo những thiệt hại to lớn về nhân mạng, nhà cửa, mùa màng. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam xin được chia sẻ với mỗi gia đình và từng nạn nhân nổi đau thiệt hại và mất mát to lớn; đồng thời sẽ điều động và phối hợp với các Tòa Giám Mục, cùng với tổ chức Caritas của các giáo phận đề xuất các phương án cứu trợ cụ thể.

Tuy nhiên, trong giữa cơn gian nan thử thách, niềm tin luôn dạy chúng ta phải vững lòng cậy trông nơi tình thương Thiên Chúa. Đó là cách sống đã trở thành chứng từ sống động nơi con người của Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, Vị Tôi Tớ Chúa sẽ được Tòa Thánh chính thức mở án phong Chân Phước vào ngày 22.10.2010. Chúng ta vui mừng cảm tạ hồng ân bao la Thiên Chúa.

Kính thưa toàn thể đồng bào và cộng đồng Dân Chúa Việt Nam,

Trước khi kết thúc bức Thư chung của Đại Hội lần thứ XI nầy, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam chúng tôi một lần nữa muốn minh định rằng: sứ mệnh rao truyền chân lý Phúc Âm và hướng dẫn Dân Chúa sống phù hợp với Tin Mừng đó chính là “mệnh lệnh” và “quyền” mà chúng tôi được lãnh nhận từ nơi Chúa Kitô. Cho dù các văn bản định hướng có khác nhau tùy theo những yêu cầu cấp thiết của con người và của Hội Thánh, nhưng nội dung và chủ đích cơ bản vẫn như lời chỉ dẫn của Sắc Lệnh Nhiệm Vụ Giám Mục của Công Đồng Vatican II:

« Các Ngài phải trình bày giáo thuyết Kitô giáo một cách thích hợp với những nhu cầu của thời đại, nghĩa là đáp ứng những khó khăn và những vấn đề đang làm cho mọi người xao động và khắc khoải nhất. Các ngài cũng phải coi sóc giáo thuyết đó bằng cách dạy cho chính các tín hữu biết bênh vực và phổ biến nó. Trong việc giảng truyền giáo thuyết này, các Ngài phải tỏ lòng ân cần từ mẫu của Giáo Hội đối với hết mọi người, tín hữu cũng như lương dân, và phải đặc biệt lưu tâm đến những người nghèo khổ, những kẻ hèn kém, mà Chúa đã sai các Ngài rao giảng Phúc Âm cho họ. »[9]

Chúng tôi cũng lượng giá rằng: nội dung bức Thư Chung nầy có thể sẽ làm dị ứng cho một số đối tượng, nhất là đối với chính quyền dân sự trong thể chế chính trị độc tài đảng trị của Việt nam hiện nay, một thể chế luôn bóp ngặt mọi tư tưởng và ý kiến khác biệt để biến tất cả thành một công cụ phục vụ cơ cấu độc tài đó. Tuy nhiên, chúng tôi muốn lặp lại chính lập trường của Giáo Hội Công Giáo được minh thị trong Sắc Lệnh có liên quan đến chính sứ mệnh của chúng tôi như sau:

« Trong việc chu toàn nhiệm vụ tông đồ nhằm cứu rỗi các linh hồn, các Giám Mục tự mình được hưởng quyền tự do đầy đủ và hoàn toàn, cũng như quyền độc lập đối với bất cứ quyền hành dân sự nào. Vì thế, không được phép trực tiếp hay gián tiếp ngăn trở việc thi hành nhiệm vụ thuộc phạm vi Giáo Hội của các ngài, hoặc không cho các ngài tự do liên lạc với Tòa Thánh, với những Thẩm Quyền khác trong Giáo Hội và với những kẻ thuộc quyền. »[10]

Với một chính quyền dân sự chính đáng và hợp pháp, nhiệm vụ của chúng tôi chính là cọng tác và xây dựng đồng thời hướng dẫn Dân Chúa thi hành nhiệm vụ công dân cách ý thức và trách nhiệm.

« Thực ra, các Chủ Chăn Thánh, trong khi chuyên tâm săn sóc việc thiêng liêng cho đoàn chiên, thực sự cũng lo đến công việc thăng tiến và nền thịnh vượng của xã hội trần thế, bằng cách cộng tác hữu hiệu với các chính quyền dân sự để thực hiện mục đích trên trong phạm vi chức vụ và hợp với cương vị Giám Mục; và bằng cách nhắn nhủ đoàn chiên vâng phục các luật lệ chính đáng và tôn trọng các quyền bính hợp pháp. »[11]

Riêng đối với anh chị em trong gia đình Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam, xin anh chị em tiếp tục cầu nguyện để Hội Đồng Giám Mục Việt Nam luôn là một khối duy nhất, là dụng cụ hữu hiệu và dấu chỉ cụ thể cho mối hiệp thông giữa lòng Giáo Hội Việt Nam và với Giáo Hội hoàn vũ. Xin cầu nguyện cho mỗi giám mục chúng tôi mỗi ngày trở nên thánh thiện hơn để luôn xứng đáng là những Tông Đồ của Chúa Kitô trong thiên niên kỷ mới.

Xin Chúa chúc lành cho tất cả chúng ta.

BC: Vì bức thư nầy được tìm thấy trong thùng rác của một Tòa Giám Mục dưới dạng viết tay, nên không thấy có chữ ký của vị giám mục nào.

Trần Khánh Hòa

——————————————————————————–

[1] Tông Hiến “Venerabilium Nostrorum” của ĐGH Gioan XXIII về việc thiết lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam.

[2] Sắc lệnh về Nhiệm vụ của Giám Mục trong Giáo Hội (CHRISTUS DOMINUS), số 2.

[3] Diễn từ chào mừng Đức Cha Nhơn nhậm chức Phó Tổng Giám Mục Hà Nội của Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh ngày 7.5.2010

[4] Hiến chế “Vui Mừng và Hy vọng” của Công Đồng Vatican II

[5] Thư chung 1980: Đồng hành cùng Dân Tộc.

[6] Thông điệp Caritas in veritate của ĐGH Bênêđictô XVI, số 9

[7] Bài viết của ĐGM Phêrô Bùi Tuần trên báo CG & DT số 1780: “Truyền giáo tại Việt Nam hôm nay”.

[8] Sứ điệp của Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI gửi Đức cha Chủ tịch HĐGMVN nhân dịp Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam.

[9] Sắc lệnh về Nhiệm vụ của Giám Mục trong Giáo Hội (CHRISTUS DOMINUS), số 13.

[10] Sắc lệnh về Nhiệm vụ của Giám Mục trong Giáo Hội (CHRISTUS DOMINUS), số 19.

[11] Sắc lệnh về Nhiệm vụ của Giám Mục trong Giáo Hội (CHRISTUS DOMINUS), số 19.
Trần Khánh Hòa

July 19, 2010

CỦA CHÚNG TA HAY CỦA CHÚNG NÓ?

Filed under: Tôn Giáo,Vietnam — tdnl @ 6:40 am

Thiên Hạ Sự

Muốn lãnh đạo hũu hiệu, ngoài khả năng tài trí và đạo đức, yếu tố cần phải có là được các thành viên của tổ chức xem là, nhận là (perceived as) “người của chúng ta” (one of us). Nhận thức lối nầy có tính cách chủ quan, do cảm tính và thường khi không đúng sự thật. Nhưng thiếu yếu tố này thì tài thánh cũng không thể lãnh đạo được. Nhiều lắm là được xem như người đứng đầu, tức “thủ trưởng” của tổ chức. Thủ trưởng là sự kiện thường thấy, xảy ra hằng ngày ở các chế độ độc tài toàn trị ở mọi cấp bậc trong guồng máy cầm quyền. Muốn lãnh đạo mà thuộc cấp không vâng phục, tức chỉ vâng mà không phục — vâng lời vì nể sợ quyền hành nhưng tâm không phục, khẩu không phục –, thì trước sau cũng thất bại và vai trò lãnh đạo (leadership) sẽ thu gọn xuống vị thế thủ trưởng (headship).

Con người thời đại hôm nay không sẵn sàng tuân lệnh như thời trung cổ. Những kẻ độc tài toàn trị ngày nay cũng không thể bóp cổ, bóp miệng thần dân dễ dàng như vua chúa thời phong kiến hàng ngàn năm trước.

Trong “Thánh Lễ Tạ Ơn và Chào Đón” Tổng Giám Mục Phó Nguyễn Văn Nhơn ở Tổng Giáo Phận Hà Nội ngày 07-05-2010, qua các bài tường thuật, videos, và hình ảnh bên lề, một sự kiện không thể phủ nhận là Đức Cha Phêrô không được đa số những người tham dự thánh lễ xem là “người của chúng ta” mà là “người của chúng nó!” Bên ngoài nhà thờ, thánh lễ chào mừng Đức Cha Phêrô đã biến thành “cuộc trưng cầu dân ý” giữa người cũ là Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt sắp ra đi theo sự thỏa hiệp giữa Vatican, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (HĐGMVN) và tâp đoàn cầm quyền Hà Nội, và người mới là TGM Phó với quyền kế vị Nguyễn Văn Nhơn vừa được Tòa Thánh bổ nhiệm ngày 22-04-2010 với sự chuẩn y của tập đoàn Hà Nội.

Cái biểu ngữ duy nhất treo trên cửa chánh vào Nhà Thờ Chánh Tòa Hà Nội, “Hân Hoan Chào Mừng Đức Tân Tổng Giám Mục Phó Phêrô”, dù ở trên cao vẫn bị che khuất bằng rừng biểu ngữ ủng hộ TGM Ngô Quang Kiệt:

Tinh thần Ngô Quang Kiệt Bất Diệt
Tôn Vinh Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt
Chúng con yêu mến ngài. Chúng con mãi mãi bên ngày
Chúng con luôn đồng hành cùng Đức Tổng Giuse kính yêu
Đức TGM Ngô Quang Kiệt mãi mãi là Tổng Giám Mục của chúng con…
Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt mới là người chủ chăn đich thực

Có cả kiến nghị gồm hơn 15.000 chữ ký của giáo dân Hà Nội xin Tòa Thánh giữ Đức Cha Giuse ở vai trò Tổng Giám Mục Tổng Giáo Phận.

Đây mới thật sự là tâm tình tự phát của quần chúng giáo dân Hà Nội đối với vị chủ chiên đã từng đồng sanh, đồng tử với họ, trái hẳn với đám côn đồ “quần chúng tự phát” ăn lương nhà nước Cộng Sản Việt Gian có mặt trong các lần cướp tài sản giáo hội và dân oan.

Khách quan mà nói, không thể đòi hỏi Phó Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Nhơn có cái uy tín của Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đối với các tín hữu Hà Nội lúc này được. Uy tín không phải từ trời xuống hay tự nhiên mà có, nhưng là sự tích tụ lâu ngày, thành quả của việc làm đem lại. Uy tín không thể tạo ra bằng một văn thư bổ nhiệm. Dù hơn hai năm giữ vai trò Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và 19 năm làm Phó Giám Mục, rồi Giám Mục giáo phận Đà Lạt, GM Nguyễn Văn Nhơn chưa có một ngày trông coi TGP Hà Nội. Bỏ qua những tin đồn, nhiều khi do chính tập đoàn cầm quyền Hà Nội tung ra để gây chia rẻ nội bộ Giáo Hội, nếu chỉ vì đức vâng lời mà nhận trách nhiệm mới ở TGP Hà Nội thì quả thật Đức Cha Phêrô đã hy sinh quá lớn, quá nhiều. Người đi, kẻ đến… đổi thay là chuyện thường tình xưa nay. Nhưng lần nầy kẻ đến không được hoan nghênh và người đi không ai muốn xa lìa… Trong buổi lễ tạ ơn chào đón mình, đi qua con đường chỉ ngắn vài mươi thước, với rừng biểu ngữ tỏ bày lòng yêu thương quý mến chân thành của giáo dân đối với Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, có lẽ Đức Cha Phêrô đã cảm thấy đang đi trên con đường dài nhiều cây số giữa mùa hè rực nắng… Một cực hình! Không phải chỉ cá nhân Giám Mục Nguyễn Văn Nhơn mà bất cứ giám mục nào trong HĐGMVN hiện nay cũng sẽ gặp phải trường hợp của Đức Cha Phêrô nếu dám nhận trách nhiệm mới ở TGP Hà Nội. Những giám mục trẻ hơn và “khôn ngoan” hơn đã có đủ lý do khước từ sự hy sinh có thể làm thân bại danh liệt nầy!

Có lẽ vì quá thận trọng, TGM Phó Nguyễn Văn Nhơn đã cẩn thận dùng phương cách an toàn trong bài đáp từ lời giới thiệu của TGM Giuse Ngô Quang Kiệt. Rất tiếc là phương cách này không hữu hiệu trong cảnh huống hiện nay khiến cho tình trạng vốn đã xấu trở nên tệ hơn. Cũng như nhiều người, người viết thầm mong Đức Cha Phêrô sẽ có những ý tưởng đột phá trong phần đáp từ. Vài người, như linh mục Pascal Nguyễn Ngọc Tĩnh, đi xa hơn, nghĩ đến “biến cố,” dù chỉ tưởng tượng, TGM Phó Nguyễn Văn Nhơn tuyên bố sẽ đệ đơn từ chức Phó TGM Hà Nội với quyền kế ngay sau khi đọc văn thư bổ nhiệm. Nhưng thất vọng và thất vọng… Đức Cha Phêrô đã để lỡ mất cơ hội chinh phục tâm tình giáo dân Hà Nội trong lần tiếp xúc đầu tiên. Phải chi Đức Cha can đảm nói vài lời đại ý như sau thì có lẽ tín hữu Hà Nội đã có cái nhìn khác, tích cực hơn về Đức Cha Phêrô, và biết đâu họ đã xem Đức Cha là “người của chúng ta” thay vì “người của chúng nó:”

Thưa anh chị em,

Cho đến hôm nay, đứng trước anh chị em, tôi vẫn như người nằm mơ, một giấc mơ tôi không mơ ước, không muốn có và không muốn thấy xảy ra. Thật tình tôi không đủ khả năng đức độ để thay thế Đức Cha Giuse trông coi Tổng Giáo Phận Hà Nội và chăm sóc anh chị em. Nhưng vì đức vâng lời, tôi không thể thối thác trách nhiệm cũng như từ khước vinh dự được làm việc với Đức Cha Giuse. Tôi đến để phục vụ anh chị em. Kể từ hôm nay tôi là một với anh chị em. Tất cả chúng ta, mọi thành phần dân Chúa trong TGP Hà Nội là anh chị em trong một nhà, một đại gia đình. Như Đức Cha Giuse vừa phát biểu, tất cả chúng ta sẽ đoàn kết nên một, đồng hành, đồng sanh, đồng tử với nhau để làm sáng danh Thiên Chúa.

Tôi không thể chu toàn trách nhiệm đó nếu không có sự giúp đỡ của anh chị em. Tôi cần sự cộng tác của anh chị em. Tôi mời gọi anh chị em. Xin Chúa Toàn Năng gìn giữ Đức Cha Giuse, ban cho ngài sức khỏe dồi dào để cùng đồng hành với chúng ta. Xin Thiên Chúa chúc lành cho từng anh chị em, cho từng gia đình trong đại gia đình TGP Hà Nội…

Chỉ cần những lời như vậy. Đơn giản mà chân thành nhưng gây ấn tượng, cảm tình tốt đẹp. Rất tiếc Đức Cha Phêrô đã để lỡ mất cơ hội. Chỉ mới hơn hai tuần sau khi được Tòa Thánh bổ nhiệm làm TGM Phó Hà Nội mà trông Đức Cha già thêm 5 tuổi. Trong ngày đáng lẽ thật mừng vui cho cá nhân cũng như cho Tổng Giáo Phận mà thấy Đức Cha âu lo, lầm lũi đi như người mất hồn, người viết thật bất nhẩn! Chẳng lẽ Đức Cha đang đi trên con đường dẫn vào ngõ cụt… vui thì không có mà buồn lo thì quá nhiều?

Khó khăn trước mắt quá lớn. Sức người lại có hạn, nhất là ở tuổi trên 72. Nhưng có Chúa và với Chúa thì không có việc gì không thể thực hiện được. Cầu mong với sự phù trợ của Chúa Thánh Linh và với những việc làm cụ thể của người mục tử chân thực, Cộng đồng Dân Chúa TGP Hà Nội sẽ dần dần nhận ra Đức Cha Phêrô là người của Giáo Hội Chúa, “người của chúng ta,” không phải là “người của chúng nó.”

Xin Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và giàu lòng thương xót luôn luôn soi sáng và phù hộ Đức Cha Phêrô trong việc làm mang lại công lý và hòa bình cho mọi người để “Danh Cha Cả Sáng, Nước Cha Trị Đến, Ý Cha Thể Hiện Dưới Đất Cũng Như Trên Trời.” Người tín hữu Việt Nam hiện nay không cần thầy giảng mà cần chứng nhân.

Trích lại từ: http://tiengnoigiaodan.net/an10q2/1005_024.html

June 13, 2010

Xin Cha Cho Con Thưa Chuyện

Filed under: Tôn Giáo,Vietnam — tdnl @ 5:27 am

Trước hết con có lời chào và kính chúc Cha sức khỏe!.

Qua một số thông tin, con biết Cha là người học rộng, đi đây đi đó giảng dạy, thuyết trình… Đặc biệt nghe tin sắp tới Cha còn được cân nhắc lên chức Giám Mục của giáo phận Vinh. Con xin chúc mừng Cha trước.

Cha biết rồi đó, hiện nay có nhiều cách nhìn khác nhau về mối tương quan phức tạp giữa Công giáo với Nhà nước cộng sản Việt Nam. Theo tính tò mò tự nhiên, con đã gặp được bài viết về đề tài này của Cha trên mạng, nó đã được viết và đăng trên Nguyệt san CG&DT từ năm 2006. Tuy nhiên con nghĩ đây là đề tài có tính lịch sử nên vẫn còn nguyên giá trị, đặc biệt trong giai đoạn này. Hơn nữa một con người uy tín và được tiếng học cao như Cha, nó chắc chắn đã để lại tầm ảnh hưởng không nhỏ.

Cũng bởi lẽ đó, kể từ lúc con đọc bài này đến giờ, con luôn cảm thấy khắc khoải và bất an trong tâm hồn. Bởi con thấy sao mà tư tưởng của con nó khác Cha nhiều vậy? Con đã đọc đi đọc lại không dưới 5 lần, nhưng không sao nắm được một cách cụ thể về mối tương quan này như thế nào. Điểm rõ nhất mà con nắm được là biết Cha đã có thời gian sinh sống và học tập ở ngoại quốc rất dài; Tài liệu mà cha tham khảo và trích dẫn trong bài viết hầu như của “lề phải”. Con lo lắng vì biết đâu, nhiều người cũng bị rơi vào hoàn cảnh như con thì sao?

Vậy với thiện ý chân thành, con xin Cha cho con được trò chuyện (không dám đối thoại) với Cha về một số điểm con cảm thấy khúc mắc. Kính mong Cha đón nhận với tâm tình con cái trong gia đình Giáo Hội, chuyện trò trên phương diện Cha Con chứ không phải với cương vị một người Linh mục của Chúa. Tuy nhiên trong cuộc trò chuyện này con xin dùng danh từ “Cha” để xưng hô cho phải đạo. Bởi thú thật với Cha, con là một giáo dân mà mỗi tuần chỉ đi được một buổi lế Chúa nhật; Văn hóa và Giáo lý chỉ được học hết phổ thông, Thần học và Tu đức càng chưa bao giờ đọc tới. Xin Cha đón nhận con như một đứa trẻ bi bô tập nói. Con xin cám ơn Cha!

Phần chữ màu đỏ là nội dung bài viết của P. Nguyễn Thái Hợp, O.P. mà tôi thấy cần trao đổi ( quý vị có thể đọc nội dung đầy đủ ở đường dẫn cuối bài )

Có nhiều quan điểm, tâm trạng, thế đứng và cách nhìn khác nhau về mối tương quan phức tap giữa Công giáo với Nhà Nước Việt Nam hiện nay. Rõ rệt nhất là thế đứng của những người ủng hộ hay chống đối, trong cuộc hay ngoài cuộc, chủ trương đối thoại hay nhất thiết quyết định loại trừ, hủy diệt nhau. Cuộc chiến tranh quá phức tạp và bi thảm ở thế kỷ XX không những làm cho đất nước khánh kiệt, mà còn gây thù hận, xung đột, chia rẽ giữa người Việt Nam với nhau. Có lẽ cần nhiều cố gắng và thời gian mới có thể hàn gắn những đổ vỡ, đau thương …

Con đồng ý là do cách nhìn khác nhau dẫn đến quan điểm và chủ trương khác nhau về mối quan hệ này. Tuy nhiên nếu đề cập đến vấn đề ủng hộ hay chống đối, cần phải hiểu rõ hơn về thế nào là ủng hộ, thế nào là chống đối? ủng hộ cái gì, chống đối cái gì? Tại sao lại ủng hộ, vì sao chống đối… căn cứ vào đâu? Nếu Cha theo quan điểm của nhà nước cộng sản con thấy chắc chắn không ổn. Ví dụ như Việt gian thành Việt kiều; giáo dân gương mẫu và tầng lớp dễ bị xúi dục; Linh mục quốc doanh và linh mục phản động…

Còn việc hàn gắn những đổ vỡ, đau thương con thấy không phức tap, bi quan như Cha nghĩ. Tốt nhất cái này nên hỏi mấy ông cộng sản lãnh đạo, vì trong Đất nước này họ là kẻ ăn trên ngồi trốc và đối xử với dân theo cơ chế Xin-Cho. Nghĩa là theo quan điểm Chủ-Tớ. Thật vậy, thời gian chiến tranh đã lùi vào dĩ vãng gần nửa thế kỷ. Thử hỏi chính quyền cộng sản từ đó đến nay đã làm được cái gì cho nhân dân? Họ đã tiêu tốn bao nhiêu nhân lực, bao nhiêu tài nguyên khoảng sản… Hiện tại tổng số tiền vay là bao nhiêu, ai trả và trả đến khi nào thì hết…? Vì vậy theo con, chính quyền này nên trả lại cho nhân dân, nên đa đảng và bầu cử tự do để chọn những người tài lên lãnh đạo đất nước. Nói chung là không nên tiếp tục lừa dối dân mình nữa mà nên đối mặt với sự thật. Nếu điều này xảy ra thì việc hàn gắn đổ vở đau thương là chuyện không cần phải nhắc nữa.

… Những dòng dưới đây chỉ là tâm sự của một người ở trong cuộc và thiết tha vừa với Đất nước, vừa với Giáo hội. Đây là cái nhìn của một người được ra khỏi nước trong giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến. Dù không được làm chứng nhân sống đối với giai đoạn lịch sử căng thẳng và phong phú nhất trong mối quan hệ giữa người Công giáo với Nhà Nước, người viết may mắn tạm thời được ra khỏi cơn lốc binh lửa nghiệt ngã đã cuốn hút cả dân tộc ta trong suốt nhiều thập niên. Vị thế đặc biệt này đã giúp người viết có một khoảng cách quý hóa để nhìn vấn đề một cách khách quan và thanh thản hơn, mặc dù cái nguy cơ cố hữu của nó là thiếu chất sống và rất dễ trở rơi vào lý thuyết hão !!!

Đúng đó Cha. Nhất là bàn về lịch sử thì điều này càng nguy hiểm bởi không khéo Cha lại bị tham khảo nhầm sách đó. Trong xã hội Việt Nam hiện nay, sự thật được xem là “món đồ cổ” mà Cha. Nếu Cha nên tham khảo những người đã chứng kiến sự man rợ, trực tiếp được hưởng những chính sách ngu xuẩn nhất như: Cải cách ruộng đất, bài trừ tôn giáo, cướp tài sản giáo hội… lại sai sao? May mà Cha đi tu miệt mài kinh sử ở ngoại quốc nên có “khoảng cách quý hóa” và giờ về nước được đảng cho phép thuyết trình chính trị, nhận xét lịch sử trong tư thế “thanh thản hơn”. Con nghĩ nếu thông minh như Cha nhưng không đi tu, mà đi làm công chức kiếm tiền nuôi vợ con thì Cha thử nghĩ xem họ cho Cha làm đến chức nào? Chính quyền này họ có sử dụng Cha không, một khi Cha chưa vào đảng cộng sản?

… Trong suốt nhiều thập niên, cuộc đối đầu giũa hai ý thức hệ, với mô hình kinh tế, đường lối phát triển dân tộc, chế độ chính trị tương phản … đã cuốn hút tất cả dân tộc vào cơn binh lửa khốc liệt.. Bởi Rất có thể cũng thiết tha yêu nước và mong muốn phục vụ đồng bào như nhau, nhưng nhất định “không đội trời chung”, không cộng tác và đối thoại với nhau. Có lẽ ít thấy giai đoạn nào trong lịch sử người Việt chia rẽ, hiềm khích, hận thù và đối xử độc ác với nhau như trong một vài giai đoạn ở thời hiện đại!

Đến giờ này mà Cha còn nhận định thế này thì chẳng trách gì cộng sản nó mời Cha đi thuyết chỗ này, giảng chỗ kia? Cái này Cha nên nói cho rõ là thằng nào gây chiến, ai muốn loại trừ ai? Chính nghĩa và phi nghĩa trong một cuộc chiến nằm ở đâu? Không thể nói theo kiểu chung chung trên trời rơi xuống, làm những người trẻ tuổi non dạ như chúng con hiểu nhầm về lịch sử là Cha có tội đó. Ý của Cha có phải là: cuộc chiến đấu Bắc Nam chỉ là cuộc tranh giành hơn thua? Chính quyền hai bên đã lấy mạng sống của người dân ra làm trò đùa, lấy vận mệnh Dân tộc, Đất nước ra giày xéo để chứng tỏ ai “yêu nhi đồng” hơn. Nếu đúng vậy thì con nghĩ cả cộng sản và cộng hòa đều là loại trâu chó, không phải người??? Con bất bình nhất là câu: “Bởi Rất có thể cũng thiết tha yêu nước và mong muốn phục vụ đồng bào như nhau…”. Trời đất, nếu ông Nông Đức Mạnh mà đọc được câu này, chắc chắn Cha sẽ được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh.

… Người dân Miền Nam, đặc biệt là những người gốc di cư, đã bị rơi vào vòng xoáy của cuộc chiến ý thức hệ này một cách hết sức nghiệt ngã! Thật vậy, trừ một thiểu số ít ỏi, đại đa số dân chúng hầu như không thể vượt khỏi “thời cuộc” để có thể nhìn cuộc chiến từ góc độ khác.

Ca tụng bản thân vừa thôi Cha, vượt khỏi “thời cuộc” có nghĩa là ra nước ngoài học, rồi vào dòng ăn chay nghiên cứu để giờ có cái nhìn trung dung chăng? Đồng bào lúc đó rau cháo không có để ăn… rồi phải lao vào một cuộc càn quét của quốc tế cộng sản như: “đã thực bài phong”, “trí phú địa hào đào tận gốc, đốc tận rễ”… Vấn đề này có một số người dễ tính thích dung hòa đã muốn cho nó vào quá khứ vì đảng đã sửa sai rồi. Nhưng sửa sai không có nghĩa là xóa bỏ lịch sử. Hơn nữa, sửa kiểu gì mà ông Trường Chinh (kẻ cầm đầu trong cuộc cải cách ruộng đất) đã hiên ngang quay lại nắm chính quyền mãi tận sau này???

Những người có tiền có của ở Miền Bắc đã bị cướp sạch, rồi bị bắn, bị đấu tố. Số còn lại chạy vào Miền Nam với mong muốn trốn khỏi những người đã được “giác ngộ cách mạng”. Cha biết rồi đó, với cuộc sống tạm bợ chưa đủ thời gian vực lại, đám lửa cộng sản thêm một lần nữa lan đến chân. Giờ thì chạy đi đâu nữa để vượt ra khỏi thời cuộc hả Cha?

Qua lời tường trình của Cha, con thấy chính những người như Cha đã mắc nợ đồng bào, đồng đạo nhiều nhất. Vì đi tu nên Cha không làm kinh tế? vậy Cha đã làm được gì cho đồng bào, đồng đạo Việt nam để xứng đáng với những đồng bạc và miếng cơm mà Cha sử dụng từ khi được sinh ra cho đến hôm nay?

… Không ai phủ nhận cái giá phải trả cho Tự do và Độc lập, nhưng nhiều người đau buồn vì Việt Nam đã phải trả một giá quá đắt. Nhìn lại giai đoạn bi thảm này, chính nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã chân thành ghi nhận những nỗi đau và nhiều mất mát. “Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy (…). Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”.

Cha ơi, đến thời điểm này trên đất nước Việt Nam chúng ta đã có Tự do và Độc lập chưa Cha? Độc lập – Tự do là cái quý giá nhất đối với một con người, một Đất nước. Chính Thiên Chúa xuống thể làm người để cứu chuộc nhân loại vì đã “lỡ” thương ban cho con người hai chữ “Tự do” phải không Cha? Và rồi vì yêu thương, Ngài không nỡ lấy lại mà đành chấp nhận đổi nó bằng chính giá máu của Đức Kitô phải không Cha? Vậy ở đây Cha nói giá quá đắt là thế nào? Để biết nó đắt hay rẻ phải có một cái chuẩn làm so sánh. Giả như đất nước mình bây giờ có dân chủ, tự do như Nhật Bản thì mất mát như thế Cha nghĩ là đắt hay rẻ? Hay ý của Cha muốn khuyên hai bên ngày xưa nên đối thoại, thương lượng với nhau rồi để như Đông Đức và Tây Đức, như Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên mà không dám nói thẳng? Tuy nhiên Cha nên hiểu rằng: “Đối với cộng sản, họ có thể đốt cả cái nhà chỉ để châm một điếu thuốc”. Chính sách của cộng sản là trường kỳ kháng chiến… cơ mà.

Với những gì đã diễn ra, theo con nghĩ không những quá đắt mà đây là sự hy sinh vô nghĩa. Trong chừng mực nào đó, nhân dân ta đã bị đảng cộng sản lợi dụng tính dân tộc để phục vụ cho mục đích riêng của phe XHCN. Độc lập – Tự do chỉ là miếng bánh vẽ mà thôi. Bởi kể từ khi cướp được chính quyền tới nay, bóng dáng Tự do chưa bao giờ xuất hiện trên đất nước mình. Ngay cả mấy cái quyền cơ bản của con người cũng chỉ đang nằm trên giấy. Đặc biệt về Tín ngưỡng thì chỉ là Tự do xin, cho hay không là quyền của đảng…
Còn vấn đề độc lập ư? Cả hệ thống tuyên truyền của đảng cộng sản ngày nào cũng mượn hai từ Độc lập để ca ngợi công ơn cho đảng, nhưng họ không nói rõ là cái độc lập mà đảng mang lại chỉ vỏn vẹn nơi ranh giới vị tuyến 17. Thực ra độc lập ở đây có ý nghĩa cho đảng cộng sản hơn là đối với nhân dân. Bởi vì Việt Nam hiện nay cũng chưa thực sự độc lập về lãnh thổ, chính trị, kinh tế và văn hóa? Lâu lâu vẫn còn có chuyện cắm mốc, dời mốc, nhượng đất, mất Ái Nam Quan… rồi chuyện Trung Quốc lẫn biến, chiếm đảo và rừng đầu nguồn…. Về kinh tế thì còn lâu vì chúng ta đang phát triển nhờ nguồn vay và viện trợ, Việt Nam đang nhập siêu và xuất thô… Về văn hóa cũng thế.

Một người bằng cấp cao như Cha, tự cho mình đứng ở thể trung dung thì có quyền đưa ra nhận định, cần gì phải nói theo kiểu số đông thế này “nhiều người đau buồn…” nhưng Cha có đau buồn không? Hay là Cha chỉ việc liệt kê quan điểm của người khác mà không màng đến lập trường của cá nhân mình. Mặt khác, Cha lấy lời ông siêu cộng sản để chứng minh cho nhận định của Cha mà bảo là có cái nhìn khách quan sao? “Lịch sử đã đặt nhiều gia đình…” Lịch sử có tội gì đâu hả Cha, chính con người đã tạo nên giai đoạn lịch sử đó chứ. Vậy ở đây phải nói cho rõ là băng đảng nào? Tên gì? Cầm đầu là ai?

Ông này cũng chỉ là một con cờ trong chính sách ăn tục nói phét của đảng thôi Cha à. Viết ra là công việc của người khác, đọc là công việc của ổng còn làm thì không cần biết. Miễn là có họp hành để dân biết mấy ổng còn sống và làm việc theo gương bác hồ. Ông Kiệt này có tham ô không cha? Có con rơi không cha? Ông làm thủ tướng sao không thay đổi đi, sợ chết à? Đổ lỗi cho lịch sư, cho chính quyền là thế nào? Ai chủ trương…? Cách làm việc của ông có quan liêu dẫn đến Đất nước suy kiệt không Cha? (Điển hình như Nhà máy lọc dầu Dung Quất ??? ) Theo con được biết, nếu ông Kiệt này có lương tri và trách nhiệm thật với nhân dân, ông ấy chắc chắn không leo đến chức Thủ tướng chính phủ được đâu Cha ạ.

… Mặt khác, Giáo hội Công giáo vào giai đoạn đó nhất quyết không chấp nhận nhân sinh quan và vũ trụ quan vô thần, cũng như chính sách độc tài của Đảng Cộng sản.

Ở câu này hình như thiếu từ “TỒN TẠI” phải không Cha? Theo con nghĩ: Chấp nhận sự “Tồn Tại” về nhân sinh quan và vũ trụ quan của vô thần có nghĩa là tôn trọng quyền tự do trong cách suy nghĩ. Ngược lại như Cha nói có nghĩa là bây giờ Giáo Hội đã chấp nhận, đã đồng ý (đồng quan điểm) với cách nhìn về con người và vũ trụ của vô thần rồi hả Cha. (Để khẳng định được điều này có lẽ phải nghiên cứu thần học, Giáo luật… mà con thì chưa bao giờ được học nên không dám kết luận). Tuy nhiên con thấy hơi nghi nghi, vì nếu đúng như Cha nói thì bây giờ người Công Giáo gia nhập đảng cộng sản vô tư, thoái mãi mà không lỗi giáo luật? Điều này Cha nên phổ biến để những người như chúng con gia nhập đảng cộng sản, kiếm cái chức tước rồi có “cơ hội” tậu nhà lầu, sắm xe hơi tranh đua với đời cho đỡ mang tiếng là “thằng khùng”…

Lại còn chấp nhận chính sách độc tài của đảng cộng sản nữa??? Sao nhiêu khê thế này Cha. Giáo hội không làm chính trị nên độc đảng hay 100 đảng nào phải là chuyện của Giáo Hội. Điều duy nhất là Giáo Hội luôn đòi hỏi chính quyền phải thật sự tôn trọng quyền làm người của con cái, quyền tự do tín ngưỡng… chứ không phải chỉ nói mà không làm. Giáo hội có trách nhiệm loan báo và bảo vệ tiếng nói công lý, sự thật mà những điều đó chỉ có thể tồn tại trong một xã hội dân chủ, tự do đích thực. Vì vậy Giáo Hội chỉ đòi hỏi và mong muốn người dân Việt Nam nói chung và người Công giáo nói riêng được sống trong tự do, dân chủ.
Chắc là Cha đã biết xã hội Việt Nam như thế nào rồi chứ? Đây chính là điểm gãy giữa Giáo hội với chính quyền, chứ không phải như Cha nói đâu. Con có thể khẳng định rằng: Nếu xã hội Việt Nam có 100 đảng mà vẫn không có dân chủ, tự do thì Giáo hội vẫn phải tiếp tục tranh đấu. Ngược lại, một đảng mà có tự do dân chủ thì cũng có sao đâu hả Cha? Hơn nữa, Giáo hội tồn tại và phát triển với rất nhiều chính thể quốc gia, nào phải riêng gì ở Việt Nam. Tại sao Quốc gia khác thì tôn trọng, còn nhà nước cộng sản Việt Nam thì đàn áp, loại trừ? Cái này sao Cha không nhắc đến.

…Trên nguyên tắc, cuộc chiến vì lý do ý thức hệ và tôn giáo này đã biện minh cho tất cả. Thêm vào đó, các thế lực chính trị đã khéo léo lợi dụng sự đối kháng này để phục vụ những ý đồ riêng. Trong rất nhiều trường hợp, câu nói “giữa Công giáo và Cộng sản, không thể đội trời chung” hình như đã trở thành một thứ nguyên tắc! Đối diện với sự đối kháng nghiệt ngã này, hầu như không còn giải pháp thứ ba, chỉ có thể một mất một còn và hệ luận tất nhiên của nó là phải chiến đấu cho đến viên đạn cuối cùng. Hòa bình, nếu có, chỉ có thể thực hiện khi hoàn toàn tiêu diệt hay đè bẹt đối phương.

Cha lại tiếp tục nói theo kiểu của cộng sản, thế lực thù địch, dễ bị kích động, lôi kéo, lợi dụng là như thế nào? Thế lực thù địch đó là những tổ chức nào, quốc gia nào, mục đích của họ là làm gì? Tại sao mấy từ ngữ đó chỉ được ghép cho người công giáo ở những nước có nền chính trị độc tài, chuyên chính mà không thấy ở các nước dân chủ. Cha đi nhiều như vậy mà lại không nhận ra điều này sao? Cha nên nhớ cộng sản họ thừa biết rằng: “ Trong một xã hội, nếu tôn giáo tồn tại và hưng thịnh thì đó chính là nấm mồ chôn cộng sản”. Đến thời điểm này mà Cha còn hùa theo cộng sản thì … con đành bỏ tay. Nếu đem so sánh các đặc điểm đang xảy ra của xã hội Việt Nam bây giờ với xã hội phong kiến ngày xưa, thì xã hội bây giờ còn có những cái thổi nát hơn đó Cha.

Như con đã nói, Cha nên tìm hiểu và so sánh xem chế độ cộng sản đã mang lại cho nhân dân ta được cái gi? Cụ thể vào? Đừng đổ lỗi cho ý thức hệ hay mâu thuẫn tư tưởng. Nếu ngày đó cộng sản không bằng mọi cách chiếm cho được Miền Nam, thì giờ Miền Nam sẽ như Hàn Quốc, Miền Bắc giống như Triều Tiên Cha nhỉ. Hơn nữa, nếu cha ông chúng ta không bị mờ mắt trước viễn vông “không làm cũng có ăn” của XHCN, giờ Đất nước mình ít nhất cũng như Đài Loan? Và nếu đúng như vậy, giờ tha hồ mà chọn con gái Việt Nam, con tưởng tưởng như thế.

…Những ai sống tại hải ngoại và theo dõi tin tức đầy đủ sẽ dễ dàng nhận thấy số phận của chế độ Sàigòn đã được quyết định tại Hội nghị Paris vào tháng giêng năm 1973. Tuy nhiên, ở Miền Nam Việt Nam nhiều người hình như vẫn cố ôm ghì niềm hy vọng hão huyền về một giải pháp chính trị hay một quyền lực vạn năng nào đó có khả năng đảo ngược tình thế.

Cha ơi, những dòng này: “nhiều người hình như vẫn cố ôm ghì niềm hy vọng hão huyền về một giải pháp chính trị hay một quyền lực vạn năng nào đó có khả năng đảo ngược tình thế.” do Cha sáng tạo, hay đã cóp nhặt trong tài liệu của đảng cộng sản hả Cha? Đã là một người lính trên mặt trận, chiến đấu đến cùng là một hành động dũng cảm và đầy trách nhiệm. Mặt khác họ dám hy sinh cả mạng sống của mình cho đồng bào là anh hùng, là Tử vì nghĩa đó Cha. Trong cuộc đời, ngoài cái thắng thua, được mất còn có cái Vinh, cái Nhục nữa chứ thưa Cha. Đối với những người quý trọng danh dự, có liêm sỉ thì mạng sống cũng chỉ là phương tiện để đạt được cái “mục đích sống” mà thôi. Một người lính xung trận chẳng lẽ mạnh thì theo, yếu thì bỏ chạy…Cha ơi, đến giờ này cha đã biết rõ cộng sản nó như thế nào rồi. Nếu là Cha thì ngày ấy cha có chiến đấu đến hơi thở cuối cùng không cha? Tại Sao? Cha có tiếc rằng, nếu ngày xưa ông bà mình sáng suốt hơn, minh mẫn hơn và đừng để cộng sản lừa bịp thì hay biết mấy không Cha?

Theo như con được biết lúc đó nhân dân đã chạy vì khiếp sợ và kinh tởm cộng sản, họ đâu dám chắc chắn rằng: vượt biên lênh đênh trên biển hàng chục đêm ngày thì cứu được mạng sống, họ có nghĩ rằng sống tỵ nạn ở đất khách quê người rồi sau 35 năm sẽ có nhà lầu, xe hơi… Cha ơi, biết bao nhiêu thế hệ tính từ ngày đó đến giờ đã không được một tấc đất quê hương để nằm lúc lìa đời, dẫu vẫn hằng mơ ước. Biết bao nhiêu con người giờ muốn về quê hương, để một lần tận mắt nhìn đồng bào mà không dám về vì sợ bị thủ tiêu, ám sát… Cha dùng những từ ngữ đó có quá đáng không Cha?

Nếu Cha còn phân vân, Cha nên đọc lá thư của bà Phan Thị Kim Hoàng viết về cái chết của Tướng Lê Văn Hưng. Dám chắc là sau khi đọc xong, Cha sẽ thấy mình có lập trường và quan điểm giống như trường hợp hai ông cấp tá, đã nhờ trí thông minh nhận định được tình thế nên tháo chạy, làm vỡ kế hoạch tác chiến. Như vậy, đến đây con có thể khẳng định Cha đúng là người “cưỡi ngựa xem hoa” và có những câu nói còn “sắc nhọn” hơn cả người cộng sản. Nếu Cha mà làm tướng thì quân dưới tay tha hồ mà nhục, tất nhiên có thể được nhiều cái lợi.)

… Nhìn lại giai đoạn khủng hoảng trầm trọng vào 1975-1985, bác sỹ Nguyễn Khắc Viện ghi nhận những sai lầm trầm trọng về kinh tế-xã hội-chính trị. “Sản phẩm nông nghiệp, kỹ nghệ, tiểu công nghệ giảm sút trầm trọng, chợ đen được đặc biệt ưu đãi do cơ chế một thị trường kép –thị trường tự do song đôi với thị trường qui định theo giá cả của Nhà nước….

Lúc Cha viết bài này thì Đất nước đã bước sang thể kỷ 21 được 6 năm rồi. Cần gì phải mượn lời ông Nguyễn Khắc Viện ghi từ năm 1985 hả Cha? Chẳng lẽ Cha không thể nhìn thấy những gì đang diễn ra trên Đất nước này, để tự tin tổng kết về một xã hội thổi nát? Vậy thì làm sao Cha có thể có cái nhìn khách quan về mối tương quan giữa Giáo Hội và Nhà nước được? Chừng ấy năm nhân dân Việt Nam lầm than, chừng ấy năm đồng bào công giáo mình bị sách nhiễu, chừng ấy năm biết bao thế hệ trẻ bị băng hoại về nhân cách, và cũng chừng ấy năm “sàn giao dịch về phẩm giá con người Việt Nam” đã bị tụt dốc liên tục…

Khốn nạn nhất là biết vậy nhưng cả dân tộc cứ đứng nhìn trong bất lực, không biết lúc nào chấm dứt. Biết vậy nhưng cả dân tộc run sợ không dám đòi quyền làm chủ Đất nước từ tay bọn quan tham? Biết vậy nhưng cả dân tộc cay đắng, chấp nhận phó thác tương lai cho một lũ người được tiến hóa từ vượn, chỉ suốt ngày tung hô thành tích đâm chém, cướp và chiếm… Cha có thương nhân dân chúng con không Cha? Cha có biết nguyên nhân tại sao không Cha? Cha có cách nào để diệt trừ những nguyên nhân đó không Cha?)

Đối với Quê hương, Dân tộc …

Phần đầu của mục này hình như Cha copy đâu đó trong hệ thống tài liệu của XHCN, tuy nhiên con thấy cũng hơi dài dòng, chắp ghép lộn xộn. Nguy hiểm nhất là đoạn Cha đã kết luận dân tộc Việt Nam trước thế kỷ X thuộc về Trung Quốc ” Đứng trên quan điểm này, một số học giả cho rằng dân tộc Việt Nam chỉ hình thành kể từ giữa thế kỷ X, khi đất nước đã thoát khỏi ách thống trị của Trung Quốc và bắt đầu thời kỳ tự chủ.” Trời đất, từ năm 2006 mà Cha đã đưa đoạn này vào để lấy lòng chính quyền rồi sao? Cha đúng là có tầm nhìn sâu xa đi trước thời đại tận 4 năm? Nếu ngày đó nhân dân biết được, chắc chắn họ sẽ bài trừ, tẩy chay tương tự như bà Tiến sĩ giả Đỗ Thị Bích Ngọc nào đó gần đây. Hình như Cha, bà Đỗ Thị Bích Ngọc và một số học giả uyên thâm mà Cha nhắc đến đều cùng đọc một sách, học cùng một thầy? Nếu có nhà nước rồi mới có dân tộc thì 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam là thế nào Cha? Theo con Cha nên đưa khái niệm theo nghĩa hẹp, nghĩa rộng vào cho đàng hoàng. Và phải có chính kiến của Cha, nghĩa là Cha thống nhất với cái nào, vì sao…Cóp nhặt thế này nguy hiểm lắm Cha ạ.

Về phần mô hình nhà nước cũng vậy, đoạn này chính là quy luật phủ định của phủ trong triết học mác-lênin đó mà. Tuy nhiên trong xã hội Việt Nam con thấy đảng cộng sản và Hồ Chí Minh được đứng ngoài phạm trù quy luật đó. Vì đảng nói rằng họ quang vinh muôn năm, HCM thì đảng bảo là sống mãi…

Để kết thúc cuộc trò chuyện này, con xin gửi đến Cha đoạn trích mở đầu của một bài viết, để Cha có thêm một góc nhìn về đối thoại, hòa hợp với đảng cộng sản trên cương vị mới.

Trong cuộc sống thường ngày, do tính chất công việc nên tôi thường xuyên được tiếp xúc với rất nhiều đảng viên đảng cộng sản. Trong số đó có không ít đảng viên đã học lý luận chính trị sơ cấp, trung cấp và cao cấp. Tôi thấy có một điều mà những người này đã nhầm lẫn một cách có hệ thống, cực kỳ vô lý và nguy hiểm. Đối với họ, những người công giáo là một “dân tộc nào đó” khác với dân tộc kinh. Những lúc nói chuyện về tín ngưỡng, tôn giáo và đời sống tâm linh, đã không ít lần họ nói rằng: “người công giáo được dạy dỗ từ khi còn bé, được học hành giáo lý nên biết nhiều và ngộ đạo chứ người Kinh như chúng tôi u mê lắm…”. Trời! Không biết những điều này họ đã được học từ nguồn tài liệu nào? Phải chăng đây là một chủ trương lớn trong chính sách tuyên truyền của đảng cộng sản?

Thật vậy, tôi thấy không những đảng cộng sản đã và đang thành công trong chính sách tuyên truyền để đồng hóa đảng là Dân tộc, bảo vệ đảng là bảo vệ Dân tộc… mà còn là Dân Tộc Kinh. Qua đó họ tự cho mình là công dân hạng nhất trên đất nước Việt Nam này, còn “đồng bào công giáo” luôn luôn là công dân hạng hai, hạng ba… Vì vậy ở một số Tỉnh đã có chủ trương cộng điểm ưu tiên cho người công giáo trong việc thi công chức giáo viên. Nếu xét về cái lợi trước mắt, nó được ví như từ trên trời rơi xuống… cho nên đã có không ít người công giáo, lấy làm vui mừng mà không thiếu lời ca tụng, cám ơn đảng và chính quyền.

Nhưng nếu chúng ta suy nghĩ sâu xa hơn một tý, đó thật sự là một chính sách quái gỡ. Tại sao chính quyền lại ưu tiên cho con em công giáo, phải chăng họ thương hại vì người công giáo phải sống cảnh lầm than, thiếu thốn đủ thứ như những người vùng sâu vùng xa? Hay người công giáo không được hưởng nền văn minh sáng suốt của đảng cộng sản như những người dân tộc thiểu số? Thật vậy, những chính sách như thế thực sự là không công bằng đối với con em lương dân chưa nhận biết Chúa. Hơn thế nữa, sự ban ơn kiểu này chính là thái độ khinh thường con em đồng bào có đạo nếu không muốn nói đó là sự chê bai, xỉ nhục.

Trên đây là những thắc mắc chủ chốt, con xin trích lại một câu, mà con đã thấy tâm huyết nhất trong bài viết này: “…bởi vì vận mệnh tương lai của lịch sử lệ thuộc rất nhiều nơi những quyết định hiện tại”. Quả thật nếu có cái nhìn sai sẽ dẫn đến nhận định sai, và cộng với đặc tính bảo thủ vốn có nơi những người được tiếng là học biết nhiều thì quả là vô cùng nguy hiểm. Nhất là những người có địa vị cao, có tầm ảnh hưởng rộng.

Trên cương vị mới, con ước rằng Cha không phải đi thuyết trình, không phải viết bài theo đơn đặt hàng cho các tổ chức của đảng cộng sản nữa. Kính Chúc được Chúa soi sáng và ban đủ can đảm, nghị lực để dẫn dắt đoàn chiên giáo phận Vinh trong an bình của Chúa Kitô và Mẹ Maria quan thầy Giáo Phận.

Click vào đây đê xem bài viết P Nguyễn Thái Hợp http://www.dunglac.org/upload/article/f__1184662559.htm

Nguồn: http://my.opera.com/T%C3%82Mv%C3%A0T%E1%BA%A6M/blog/nguyen-thai-hop

May 25, 2010

“Sự kiện Ngô Quang Kiệt”: Kỳ 2 – Hé lộ sự thật qua các phát biểu chính thức và các văn kiện Tòa Thánh

Filed under: Tôn Giáo,Vietnam — tdnl @ 2:43 pm

Wednesday, 19 May 2010 04:59 Nữ Vương Công Lý

Những ngày qua, lá thư giã biệt của Đức cha Ngô Quang Kiệt, bài trả lời phỏng vấn đài RFA của Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh – Giám mục Thanh Hóa, và nhất là sự kiện Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt ra đi bất ngờ vào đêm 12/5 vừa qua, khiến cho công luận hết sức hoang mang. Đâu là giá trị thật của những thông tin được loan tải trên các trang mạng trong suốt thời gian qua về sự đi ở của Đức Tổng Giuse Ngô Quang Kiệt?

Nếu tinh ý, người ta sẽ gặp thấy những mâu thuẫn, những ẩn ý trong các lời phát biểu của Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, từ bài trả lời phỏng vấn trang WHĐ, cho tới lá thư từ biệt; từ những lời của Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, những phát biểu của Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt về việc đi hay ở của ngài cho tới các văn thư bổ nhiệm của Tòa Thánh bổ nhiệm Đức cha Nhơn làm Tổng Giám mục Phó với quyền kế vị.

Trong bức thư từ biệt, Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt đã viết: “Thực ra, khi tôi đề cập tới vấn đề này, các bộ liên quan đều phản đối. Nhưng, khi tôi trực tiếp đệ đơn lên Đức Thánh Cha, ngài đã cảm thông và với tấm lòng hiền phụ, ngài đã chấp nhận. Cùng với đơn xin từ nhiệm, tôi cũng xin Tòa Thánh tìm người kế vị và Tòa Thánh đã tuyển chọn đức cha Nhơn”.

Ở đây, cần để ý quá trình bổ nhiệm một vị giám mục được qui định trong Giáo luật như thế nào. Điều này, chính Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt đã một lần nói tới trong cuộc trả lời phỏng vấn của WHĐ: “Thông thường việc bổ nhiệm giám mục gồm những bước cơ bản như sau. Bước thứ nhất: Khi có nhu cầu, giám mục địa phương đệ trình lên Tòa Thánh kèm với một danh sách các ứng viên thích hợp. Bước thứ hai: Tòa Thánh cứu xét bằng tham khảo ý kiến của nhiều người có uy tín về các ứng viên. Bước thứ ba: các cơ quan hữu trách (khá nhiều) cùng với các vị cố vấn họp lại, căn cứ vào các thông tin thu lượm được để duyệt xét và quyết định chọn vị xứng đáng và thích hợp nhất trong số các ứng viên. Trường hợp không tìm được ứng viên xứng đáng, sẽ trả lời và yêu cầu vị Bản quyền địa phương làm lại danh sách và tiến hành lại từ bước thứ nhất. Bước thứ tư: Nếu tìm được ứng viên thích hợp, sẽ phải hỏi ý kiến đương sự có đồng ý chấp nhận hay không. Bước thứ năm: Đức Thánh Cha chính thức bổ nhiệm và chọn ngày công bố”.

Có một điều chắc rằng Đức cha Kiệt không bao giờ đề cử Đức cha Nhơn – một vị Giám mục đã 72 tuổi làm người kế vị mình.

Lời từ biệt của Đức TGMHN Giusse Ngô Quang Kiệt

Việc Đức cha Kiệt làm đơn từ chức chắc chắn phải xảy ra sau khi Tòa Thánh bổ nhiệm Đức cha Nhơn làm Tổng Giám mục Phó. Điều này hoàn toàn có cơ sở, bởi có một thực tế rằng trong Văn thư bổ nhiệm của Tòa thánh bổ nhiệm Đức cha Nhơn làm Tổng Giám mục Phó và nghị định thư của Bộ Truyền giảng Phúc âm cho các Dân tộc về việc tuyển chọn Đức cha Nhơn, có nói rõ rằng: “Để giúp cho thiện ích thiêng liêng của dân Chúa trong Tổng Giáo phận của mình được dồi dào và phong phú hơn, Đức cha đáng kính Giuse Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám mục Hà Nội, đã xin Tòa Thánh thương ban cho ngài một Tổng Giám mục Phó”. Sắc lệnh của Đức Giáo hoàng về việc bổ nhiệm Đức cha Nhơn làm Tổng Giám mục Phó cũng nói rõ: “Thói quen của các Đấng kế vị Phêrô là nhận lời các vị lãnh đạo trong Giáo hội khi các ngài xin được giúp đỡ với lý do chính đáng. Lúc này, Hiền đệ đáng kính Giuse Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám mục Tổng Giáo phận Hà Nội đã xin cho mình một Tổng Giám mục Phó để có thể lo liệu thích đáng hơn cho đàn chiên”.

Như vậy, việc Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt làm đơn xin một vị Tổng giám mục Phó để giúp đỡ ngài là có thật và Tòa Thánh đã nhận lời. Tuy nhiên, việc ngài có đề cử Đức cha Nhơn theo qui định của Giáo luật hay không thì có điều chắc chắn rằng ngài đã không đề cử, bởi nếu ngài đã đề cử thì ngài đã không nói với các linh mục Tổng Giáo phận Hà Nội, trong cuộc gặp với các linh mục vào tối 6/5/2010 rằng: “Khi nghe Tòa Thánh bổ nhiệm Đức cha Nhơn thì tôi vừa mừng vừa sợ… tôi sẽ bàn giao ngay vì một Giáo phận không thể có hai đầu”.

Có một điều chắc rằng Tòa Thánh đã không hỏi ý kiến Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt có đồng ý Đức cha Nhơn ra Hà Nội hay không, một điều thuộc về nguyên tác khi bổ nhiệm cần có đã bị bỏ qua vì lý do gì?.

Cần nhớ rằng theo các văn kiện của Tòa Thánh, Đức cha Kiệt chỉ làm đơn xin Tổng Giám mục Phó để giúp đỡ ngài (và ngài đã đề cử 3 ứng viên do ngài chọn, không có Đức GM Nguyễn Văn Nhơn) chứ không có việc xin người để thay thế ngài.

Không biết có phải vì điều này hay không mà nhiều lần Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt đã nói với một số các linh mục tới thăm ngài tại Châu Sơn rằng: “Tôi sợ lắm, tôi bị lừa nhiều lần”?

Theo một nguồn tin chắc chắn, Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt đã ba lần làm đơn từ chức và chưa lần nào trong đơn ngài nêu lý do từ chức vì “sức khỏe”. Hai lần trước đây, ngài gửi tới các bộ có liên quan và bị từ chối và như ngài đã viết trong tâm thư “các bộ liên quan đều phản đối”, “các giám mục Giáo tỉnh Miền Bắc cũng làm đơn gửi Tòa Thánh giữ ngài ở lại”. Sau đó, ngài được gợi ý làm đơn xin Tổng Giám mục phó giúp đỡ ngài. Ngày 9/12/2009, ngài đã làm đơn xin Tổng Giám mục phó kèm theo danh sách những ứng cử viên ngài tuyển chọn. Trong số các ứng viên không hề có Đức cha Nhơn và ngay ngày 8/3/2010, ngày ngài có Giám mục Phó cũng là ngày ngài bị buộc làm đơn từ chức.

Ngài viết trong bức tâm thư: “Tôi thật có lỗi với anh chị em vì đã làm đơn từ chức”. Việc ngài bất ngờ từ chức khi vừa có vị giám mục phó khiến ngay cả Đức cha Linh, trong bài phỏng vấn đài RFA cũng phải thốt lên: “Chúng tôi rất ngạc nhiên không hiểu tại sao ngài lại từ chức vào lúc này…” và: “…có những người họ có cả một kế hoạch, ngay cả có kịch bản làm cho giáo hội Việt Nam tan nát.”.

Câu chuyện Đức cha Giuse phải rời khỏi Hà Nội còn rất nhiều điều phải làm sáng tỏ. Tại sao ngài lại phải bất ngờ ra đi ngay trong đêm 12/5/2010, trong khi ngày 13/5/2010 là ngày ngài được Tòa Thánh chính thức chấp nhận đơn từ chức? Tại sao từ ngày nhận chức ở tòa TGMHN đến nay, TGM Nguyễn Văn Nhơn hầu như không rời căn phòng đóng kín của mình mà sáng 11/5/2010, ngài đã phải dậy đi từ rất sớm đến Châu Sơn – Ninh Bình đến nỗi khi Đan Viện Xito Châu Sơn được thông báo thì Ngài đã đến gần Châu Sơn để “tha thiết mời Đức Tổng về HN”? Ai lo giấy tờ thủ tục xuất cảnh cho ngài?

Dù thế nào thì có một điều chắc chắn mà ai cũng biết việc Đức cha Giuse phải ra đi đã được bắt đầu từ cái Nghị quyết quái đản của chính quyền Hà Nội bằng con đường ngoại giao mà tờ quyết định Đức cha Kiệt phải ra khỏi Hà Nội đã được Tòa thánh gửi về Bộ Ngoại giao Hà Nội từ giữa tháng 3/2010. Việc Đức cha Nhơn ra Hà Nội là “được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ” và vị tiền nhiệm đáng kính của Đức cha Nhơn là Đức cha Giuse Ngô Quang Kiệt đã không hề được hỏi ý kiến có đồng ý chấp thuận đức cha Nhơn hay không”.

Văn thư bổ nhiệm nói rõ: “Tòa Thánh đã chỉ định Đức cha Nhơn”. Vậy Tòa Thánh ở đây là những ai? Thế lực nào đang muốn biến Giáo hội Công giáo Việt Nam đi theo đường hướng “Phúc âm, Dân tộc, Chủ nghĩa Xã hội”? Nếu thế lực này cứ tiếp tục tồn tại, khuynh loát HĐGMVN và Giáo hội Việt Nam thì sẽ để lại một hậu quả khôn lường.

Nữ Vương Công Lý
http://nuvuongcongly.com/index.php?option=com_content&view=article&id=920:he-lo-su-that-qua-van-kien-chinh-thuc-&catid=74:cong-ly-va-su-that&Itemid=265

May 24, 2010

ĐẢO CHÁNH Ở TGP HÀ NỘI NGÀY 22-4-2010

Filed under: Tôn Giáo,Vietnam — tdnl @ 2:47 pm

Thiên Hạ Sự

Người nào đánh đổi quyền tự do căn bản để có sự bình an tạm thời, người đó không xứng đáng được hưởng sự tự do cũng như sự bình an.” Benjamin Franklin

Những ai có mặt ở Sàigòn trước cuộc đảo chánh ngày 01-11-1963 lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chấm dứt chế độ hợp pháp miền Nam đều nhớ rõ cái không khí căng thẳng của những tháng ngày trước đó. Tin đồn và tin đồn. Đảo chánh và chống đảo chánh. Hết Bravo I đến Bravo II… cho đến khi tên đao phủ Henry Cabot Lodge Jr. gật đầu, bật đèn xanh cho đám tướng lãnh phản loạn do Dương Văn Minh cầm đầu hành động. Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết hại, chế độ Đệ I Cộng Hòa cáo chung vì tinh thần yêu nước, tự do và độc lập của người lãnh đạo quốc gia Việt Nam không còn phù hợp, nếu không muốn nói là một trở ngại lớn cho chánh sách toàn cầu của Hoa Kỳ. Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Ngô Đình Nhu đã tự tay ký bản án tử hình cho mình khi từ chối lời yêu cầu đưa quân đội Mỹ vào miền Nam để chống quân xâm lăng Cộng Sản miền Bắc!

Từ tháng 12-2007, Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt cũng tạo cho mình mọi sự rắc rối dẫn đến “bịnh mất ngủ” chỉ vì làm đúng trách nhiệm của một chủ chiên, một công dân biết tôn trọng công lý và hòa bình: “Xin anh chị em hãy tích cực cầu nguyện để những nơi tôn nghiêm của tôn giáo được tôn trọng, nhu cầu chính đáng của Giáo phận và của Hội đồng Giám mục được đáp ứng và những sinh họat tôn giáo được thuận lợi, góp phần xây dựng xã hội, đặc biệt khuôn mặt của thủ đô được tốt đẹp.

Lời kêu gọi đã được giáo sĩ và giáo dân Hà Nội đáp ứng nhiệt thành, với những buổi hiệp thông thắp nến cầu nguyện có hàng ngàn, hàng chục ngàn người tham dự, ngay cả những lương dân không phải là công giáo. Hẳn nhiên, tập đoàn cầm quyền Bắc Bộ Phủ không để yên. Lực lượng “quần chúng tự phát” gồm công an, cảnh sát, và du đãng có biên chế nhà nước tấn công, đánh đập, đàn áp. Giáo dân vẫn không sờn lòng, tay không tiếp tục cầu nguyện, bất bạo động. CSVG lo âu.

Ngày 30-01-2008, Vatican can thiệp “cứu bồ!” Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, Hồng Y Crescensio Bertone, gởi thơ cho TGM Ngô Quang Kiệt “Xin Đức Cha can thiệp để tránh những cử chỉ có thể gây rối trật tự công cộng!

Ngày 01-02-2008, TGM Ngô Quang Kiệt viết thư cho giáo sĩ và giáo dân Hà Nội loan báo tin “tan hàng, cố gắng” theo yêu cầu của Vatican: “Nhờ lời cầu nguyện tha thiết của anh chị em, công việc đã có kết quả. Sau những căng thẳng, đã có đối thoại giữa Tòa Tổng Giám mục và Hội đồng Giám mục Việt Nam với các vị lãnh đạo cấp cao của Nhà Nước để đi đến một giải pháp tốt đẹp.

Rõ ràng Vatican xem việc làm của Đức Cha Ngô Quang Kiệt và giáo dân Tổng Giáo Phận Hà Nội, không phải vì công lý và hòa bình, mà là hành động phá rối trật tự có hại cho ước muốn bang giao giữa hai quốc gia, đặc biệt là quốc gia Vatican. Vậy đã có sự tương đồng về não trạng giữa Vatican và Cộng Sản Việt Gian, nếu không muốn nói là có sự sắp xếp, mặc cả trước.

Sau đó, tương quan giữa Giáo Hội Công Giáo Việt Nam và nhà nước CSVG chẳng những không sáng sủa hơn mà trở nên căng thẳng thêm. Một mặt, CSVG qua Nguyễn Thế Thảo, chủ tịch UBND Hà Nội, áp lực HĐGMVN bằng mọi cách để “đẩy ông Ngô Quang Kiệt ra khỏi Hà Nội” và mặt khác, tìm cách chuẩn bị đưa người “thân tín” vào trám chỗ. “Bịnh mất ngủ” của Đức Cha Ngô Quang Kiệt bắt đầu xuất hiện.

Tin đồn Đúc Cha Ngô Quang Kiệt “từ chức vì lý do sức khỏe” được thành viên của HĐGMVN đưa ra, lửng lửng, lờ lờ để thăm dò dư luận. Người ta đề cập tới “các ứng viên sáng giá” cho chức vụ Tổng Giám Mục Hà Nội trong đó có GM Nguyễn văn Nhơn, GM giáo phận Đà Lạt, hiện là chủ tịch HĐGMVN; GM Bùi Văn Đọc, giáo phận Mỹ Tho, nổi tiếng với câu nói “Chúng con không biết ăn nói” và “đừng yêu cầu chúng tôi thù ghét người Cộng Sản;” GM Nguyễn Văn Khảm, Giám Mục phụ tá Tổng Giáo Phận Sàigòn, nổi tiếng hùng biện, giảng hay trước khi được chọn làm giám mục phụ tá, nhưng từ đó thì im lặng, khép vào khuôn phép của chính ủy Tổng Đại Diện Huỳnh Công Minh.

Giống như tình hình ở Sàigòn vài tháng trước ngày đảo chánh 01-11-1963, tin đồn về người sẽ thay thế TGM Ngô Quang Kiệt trở nên “có trọng lượng” (từ ngữ của Việt Cộng) sau ngày TGM Ngô Quang Kiệt đi Roma chữa bịnh, ngày 04-03-2010.

Bất thình lình ngày 09-04-2010, Đức Cha Ngô Quang Kiệt trở về Hà Nội trong lúc HĐGMVN đang họp bàn “chuyện nhân sự của Giáo hội” ở Vũng Tàu. Theo mạng Nữ Vương Công Lý, sự trở về của Đức Cha Kiệt “đã phá tan một âm mưu diễn biến hòa bình của CSVN đối với Giáo Hội Việt Nam”. HĐGMVN “hụt hẩng” vì sự trở về đột ngột này.

Ngày 22-4-2010, Đức Giáo Hoàng Biển Đức 16 đã bổ nhiệm GM Phêrô Nguyễn Văn Nhơn làm Tổng Giám Mục Phó TGP Hà Nội với quyền kế vị. Đây là lần đầu tiên CSVG đã chấp thuận cho Tòa Thánh bổ nhiệm một TGM Phó với quyền kế vị cho một Tổng Giáo Phận ở Việt Nam. Ở vai trò giám mục giáo phận Đà Lạt trong những năm qua, GM Nguyễn Văn Nhơn đã khéo léo gây được sự tín nhiệm của CSVG bằng những lời tuyên bố vô thưởng vô phạt làm “tốt đời, đẹp đạo,” ngay cả khi tài sản đất đai của giáo phận bị cưỡng chiếm (Giáo Hoàng Học Viên). Tập đoàn thống trị Hà Nội đã nhìn thấy nơi GM Nguyễn Văn Nhơn một người hợp tác tích cực cho đường lối “tự do tôn giáo… theo định hướng xã hội chủ nghĩa” để làm “tốt đời, đẹp đạo!”

Cuộc đảo chánh ở TGP Hà Nội ngày 22-04-2010 thành công nhờ sự cộng tác của ba thế lực:
• Tập đoàn Cộng Sản Việt Gian.
• Quốc Gia Vatican
• Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.

Trong trường hợp này, Vatican không đóng vai “Tòa Thánh,” đầu não của một “Giáo Hội Thánh Thiện, Công Giáo và Tông Truyền,” nhưng hành sử như một quốc gia trần thế chỉ biết quyền lợi riêng của quốc gia mình. Không có sự cộng tác tích cực của HĐGMVN thì Vatican và tập đoàn CSVG cũng không thể làm đảo chánh được. HĐGMVN sau 1975 là một tổ chức không hiệp nhất, chỉ chú trọng đến quyền lợi địa phương, giáo phận ai nấy lo, người khác sống chết không cần biết, gồm những giám mục đa số được sự chuẩn y của CSVG, cầu an, nhát sợ (hay hèn nhát, khiếp nhược?), thích được phục vụ thay vì phục vụ, thích làm thầy giảng hơn làm mục tử nhân lành… Tập đoàn CSVG vô thần xem tôn giáo, đặc biệt là công giáo, là kẻ thù phải tiêu diệt bằng mọi cách. CSVG gài người vào các tổ chức tôn giáo để kiểm soát, làm ăng-ten báo cáo… và bề ngoài “có vẻ” nới tay với công giáo để được tiếng là có tự do tôn giáo qua lễ kiệu, xây cất nhà thờ, cho phép giám mục, giáo sĩ tự do xuất ngoại…

Nếu làm “mục vụ” theo nghĩa xây cất, làm lễ, lộng che, xướng hát thì con đường “tu hành” của Đức Cha Ngô Quang Kiệt sẽ rộng thênh thang. Nhưng cha muốn “tu” và “hành” phải đi đôi, muốn thật sự là “mục tử nhân lành,” sống chết với đàn chiên, “chạnh lòng thương” — khẩu hiệu, cha dùng làm khuôn thước hành động khi được bổ nhiệm làm Giám Mục Lạng Sơn– với những khổ đau của đàn chiên, của dân tộc Việt Nam. Cha muốn thấy một đất nước, một xã hội, một giáo hội có hòa bình trong công lý, quyền tự do của con người được tôn trọng. Cha phạm điều cấm kỵ của xã hội Việt Nam hôm nay, thời cờ đỏ sao vàng. Cha “đi ngược dòng đời”… Bởi đó mà tập đoàn thống trị CSVG ở Hà Nội mới la hét đòi “giết Ngô Quang Kiệt, giết Vũ Khởi Phụng!”

Tháng tư 35 năm trước, 1975, miền Nam tự do mất vào tay cộng sản vì bị đồng minh Hoa Kỳ phản bội. Tháng 4 năm 2010, 35 năm sau, Giáo Hội Việt Nam, tự do của dân tộc Việt Nam bị bán đứng vì quyền lợi thế gian. Trong tháng tư đen này, Giáo Hội Việt Nam thật sự “đồng hành với dân tộc,” cùng chịu khổ nạn với toàn dân…

Trong những năm qua nhiều người dùng hình ảnh “cây gậy và củ cà rốt” để ám chỉ chánh sách của CSVG đối với Vatican và Giáo Hội Việt Nam. CSVG lúc nào cũng sẵn sàng dùng cây gậy thật to để đập nát đầu những người tranh đấu cho tự do, nhân quyền. Còn củ cà rốt là gì? Bang giao Vatican-Hà Nội và cuộc viếng thăm Việt Nam của Đức Giáo Hoàng? Trong hoàn cảnh đất nước Việt Nam hiện nay, nhận ăn củ cà rốt nầy chỉ làm lợi cho tập đoàn CSVG. Vatican sẽ hối không kịp.

Những người lãnh đạo GHVN trước nay – giám mục và giáo sĩ – có thói quen dán nhãn hiệu “sáng danh Chúa,” “vì Chúa” cho mọi việc làm, hành động của mình: xây nhà thờ, lễ lạc, kèn trống, kiệu khiên, áo mão… tất cả đều cho Chúa, vì Chúa …

Có thật không?

Nhìn lên bàn thờ, Chúa bị đóng đinh trên thập giá, áo quần tả tơi (thật sự là trần truồng!). Trên cung thánh, người chủ tế áo lễ sặc sỡ, đắt tiền, chén vàng, chén bạc… Ngoài nhà thờ, đàn chiên đói ăn, bịnh tật, bị đánh đập cướp bóc… Có phải vì Chúa, cho Chúa không? Hay tại Chúa ?

Sau ngày đảo chánh thành công, 01-11-1963, cái gọi là Hội Đồng Quân Nhân ”Cách Mạng” chọn Dương Văn Minh làm Quốc Trưởng, khởi đầu cho giai đoạn nhiễu nhương, xáo trộn nhất của Việt Nam Cộng Hòa, và dẫn tới sự cáo chung của chế độ tự do ngày 30-4-1975.

Ngày 22-04-2010, Vatican và HĐGMVN cũng làm “đảo chánh” để làm vừa lòng tâp đoàn CSVG Hà Nội, đưa giám mục Nguyễn Văn Nhơn từ giáo phận Đà Lạt về làm Phó TGM Hà Nội với quyền kế vị. Tương lai Tổng Giáo Phận Hà Nội, Giáo Hội Việt Nam, đất nước Việt Nam sẽ như thế nào? Đây là một thành tích lập để chào mừng Năm Thánh 2010 của Giáo Hội Việt Nam, kỷ niệm 350 năm đạo Chúa đến đất nước nầy và 50 năm Hàng Giáo Phẩm Việt Nam được chánh thức thành lập?! Riêng Giám mục nghỉ hưu Bùi Tuần, nhờ “Não Trạng Thay Đổi” (VietCathoilic News, ngày 01-05-2009) nên có cái nhìn khác, sẽ mừng vui với sự ra đi của Đức Cha Ngô Quang Kiệt và thành quả cuộc đảo chánh nầy?!

HĐGMVN sẽ trả lời sao khi Chúa hỏi: “Còn em ngươi đâu?!

Thiên Hạ Sự

Thư gửi quý vị độc giả Nữ Vương Công Lý

Filed under: Tôn Giáo,Vietnam — tdnl @ 7:08 am

Chưa bao giờ GHCGVN lại rơi vào thảm trạng như hiện nay, theo đường hướng này, một Giáo hội Công giáo Việt Nam với viễn cảnh “Phúc âm, dân tộc và Chủ nghĩa xã hội” đang hình thành.

Một cơ cấu hàng Giáo phẩm Việt Nam đang bị một nhóm người khuynh loát, dẫn dắt, áp đặt để rồi luôn đồng hành cùng nhà nước vô thần mà bỏ qua sự đồng hành với những người nghèo khổ – Sứ mạng của Giáo hội Công giáo.

Kính thưa quý vị độc giả Nữ Vương Công Lý

Cuối cùng, điều không ai mong cũng đã đến: Đức Tổng GMHN Giuse Ngô Quang Kiệt đã phải rời khỏi vị trí ngai tòa của Ngài tại Tòa TGMHN. Đồng hành với Ngài trong sự kiện đau đớn này, có thêm Đức Giám mục Phaolo Cao Đình Thuyên – Giám mục GP Vinh.

Hai nhân chứng của Sự thật – Công lý – Hòa bình, một già, một trẻ đã từng đồng hành với nhau trên những giai đoạn căng thẳng, khó khăn nhất của Giáo hội, nay lại đồng hành trong sự kiện cùng phải rời bỏ vị trí của mình.

Sự kiện này, dù đã được báo trước, nhưng khi xảy đến vẫn không thể không gây nên một cơn sóng uất hận, chán nản… trong lòng giáo dân và Giáo hội Công giáo Việt Nam.

Chúng ta là những tín hữu Công giáo, chúng ta nghĩ gì trước sự kiện này?

Trước hết, là những tín hữu Kito, chúng ta yêu mến Thiên Chúa bằng niềm tin bất diệt đã từng được hun đúc, luyện rèn và khẳng định qua hàng trăm năm với bao máu đào của các vị tiền nhân tử đạo.

Vì yêu mến Thiên Chúa, chúng ta yêu mến Giáo hội của Ngài, chúng ta mong muốn một Giáo hội Công giáo như lời Thầy Chí Thánh đã dạy Thánh Phêrô: “Con là Đá và trên đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh Thầy” (Mt 16:18).

Vâng! Chúa đã muốn xây Giáo hội trên “đá” chứ không xây trên bùn đất hay một nền móng không vững chắc nào khác.

Chúng ta yêu mến Giáo hội Việt Nam anh hùng, chúng ta yêu thương Giáo hội Việt Nam kiên dũng, chúng ta mong muốn một Giáo hội Việt Nam “Hiệp nhất, thông công, thánh thiện và tông truyền” mà không phải là một giáo hội “Phúc âm, dân tộc và Chủ nghĩa xã hội”

Chính vì vậy, đối với chúng tôi, ngay từ khi đưa lên mạng Nữ Vương Công Lý những thông tin nói lên những sự thật trong lòng Giáo hội, trong đó có cả những sự thật không làm người nghe được hài lòng, được vui tai… thậm chí có người còn cho là làm “chia rẽ Giáo hội”, chúng tôi hết sức cân nhắc, suy nghĩ và cầu nguyện.

Nhưng, như lời Thầy Chí Thánh đã dạy: “Sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,32), chính Chúa là Sự thật, nếu đi theo Ngài thì không thể bước ra khỏi đường hướng của Sự thật.

Vì vậy không muốn vẫn cứ phải nói ra, không thích vẫn không thể che đậy.

Là những tín hữu Kitô, trước những sự kiện này chúng ta thấy gì?

Giáo hội Công giáo Việt Nam có lịch sử gần 500 năm truyền giáo, với 350 năm thành lập hai Giáo phận đầu tiên và 50 năm thành lập Hàng giáo phẩm Việt Nam. Những năm tháng đã qua của Giáo hội Công giáo Việt Nam là một trang sử hào hùng, kiên trung và sống động niềm tin, mạnh mẽ tinh thần dấn thân, hiệp nhất trong giáo hội.

Giáo hội miền Nam, qua cơn dài chinh chiến, nơi được tự do tôn giáo hơn Giáo hội miền Bắc dưới ách ách thống trị kìm kẹp của cộng sản vô thần với đủ loại mưu mô xảo quyệt quyết trục xuất Chúa ra khỏi đời sống con người khi bị cách biệt gần như tuyệt đối với giáo hội hoàn vũ… Nhưng giáo hội dù có đau thương, vẫn kiên trung trên con đường phải trả bằng máu, bằng mạng sống để chứng minh niềm tin của mình.

Rồi đất nước qui về một mối dưới sự cai trị của những người cộng sản.

Những dàn xếp, những xáo trộn, những mưu mô được phô diễn, nhất là lá bài “Quan hệ ngoại giao” giữ nhà nước CSVN và Vatican.

Và chưa bao giờ GHCGVN lại rơi vào thảm trạng như hiện nay, theo đường hướng này, một Giáo hội Công giáo Việt Nam với viễn cảnh “Phúc âm, dân tộc và Chủ nghĩa xã hội” đang hình thành.

Một cơ cấu hàng Giáo phẩm Việt Nam đang bị một nhóm người khuynh loát, dẫn dắt, áp đặt để rồi luôn đồng
hành cùng nhà nước vô thần mà bỏ qua sự đồng hành với những người nghèo khổ – Sứ mạng của Giáo hội Công giáo.

Hội Đồng Giám mục Việt Nam là những ai, ai đã khuynh loát HĐGMVN và như thế nào? Đường dây ma quỷ nào đã len lỏi vào trong Giáo hội Công Giáo, bằng con đường nào?

Thực chất có một điều cần chú ý, đó là gần 30 vị trong HĐGMVN đã phải chấp nhận những lời trách cứ, những lời thán oán… từ cộng đồng dân Chúa khi HĐGMVN đã thể hiện sự nhu nhược, im lặng trước các biến cố của GHCGVN, cũng như các vấn đề liên quan sống còn đến uy tín của HĐGMVN và cá nhân các giám mục.
Nỗi “oan” này của các giám mục, thực chất cũng chẳng có “oan”.

Chỉ vì họ đồng bàn, đồng cảnh và đồng vai trong HĐGMVN nhưng họ đã không lên tiếng hoặc không lên tiếng đủ để thay đổi thực trạng, nhưng lại để cho một nhóm nhỏ trong đó khuynh loát và lèo lái HĐGMVN đi theo hướng ngược lại với những sứ vụ của HĐGMVN.

Tòa Thánh Vatican đã thu hái được gì sau 20 năm “mở đường quan hệ ngoại giao” với CSVN? Ai đã đưa đến Tòa Thánh những thông tin mà nhà nước CSVN đang muốn đưa đến, để lái bàn tay của Đức Thánh Cha đi theo quỹ đạo của họ. Họ là ai?

Thiết nghĩ rằng: Một giáo hội mạnh mẽ, thánh thiện chỉ có thể có khi đứng trên Sự Thật – Công Lý và đi đúng lời Chúa đã dạy vì Ngài “là đường, là sự thật và là sự sống”. Chúng ta cần một giáo hội đúng nghĩa là một Giáo hội theo ý Chúa đã dạy, không cần “những cái mả tô vôi”.

Chúng ta không có mục đích làm chia rẽ Giáo hội, nhưng sự phân định rõ ràng ánh sáng và bóng tối, sự thật và giả dối, ma quỷ và thánh thần… là điều cần thiết, không thể để giáo hữu chúng ta mù quáng đi theo những đường hướng sai lệch để đến một ngày nào đó không còn nhận ra Giáo hội của mình.

Chúa Giêsu đã nói: “Ta đến để đem sự chia rẽ” (Lc 12:51). Thật vậy, cần phải có sự chia rẽ mà Chúa đem đến, tức sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa, của Chúa Thánh Thần mới có khả năng giúp cho giáo hội chúng ta, từ giáo dân đến hàng giáo phẩm có cơ hội nhìn nhận lại chính giáo hội của mình mà có đường hướng, cách nghĩ và hành động đúng đắn.

Thể theo nguyện vọng của đông đảo bạn đọc đã gửi thư đến Nữ Vương Công Lý cần hiểu rõ sự thật vấn đề của giáo hội, theo lời dạy bảo của Website Hội Đồng Giám mục Việt Nam “chỉ nói một nửa sự thật thôi chính là cách nói dối tinh vi và tệ hại nhất”.

Lời của các bậc đáng kính trong GH thể hiện trên Website WHĐ, chúng tôi xin ghi nhớ.

Vì vậy, kể từ những ngày tới, Nữ Vương Công Lý sẽ bạch hóa những phần còn lại về sự thật liên quan đến “Sự kiện Ngô Quang Kiệt”.

Thưa quý vị độc giả

Chúng tôi biết rằng: “Sự thật sẽ mất lòng” nhưng khi chấp nhận nói lên sự thật, thì chúng ta chấp nhận đối diện với thực tế không như những lời tô vẽ xanh đỏ đẹp tươi.

Chúng tôi hết sức chân thành cảm ơn sự đóng góp, các ý kiến và sự ủng hộ của quý vị thời gian qua đối với Nữ Vương Công Lý. Những ý kiến của quý vị, dù hiểu đúng hay hiểu sai chúng tôi, đó cũng là nguồn động viên quý báu cho chúng tôi. Chúng tôi hiểu rằng, tất cả đều nằm dưới những suy nghĩ thánh thiện bảo vệ Giáo hội và luôn suy tư, lo lắng cho Giáo hội Công giáo Việt Nam được mạnh mẽ và phát triển vững chắc. (Tất nhiên, trừ một vài “đồng chí” cố tình bịt mắt làm ngơ theo mệnh lệnh để xuyên tạc thiện ý của chúng tôi, chúng tôi sẽ có dịp nói tới khi cần thiết).

Chúng tôi sẽ cảm thấy hạnh phúc, bình an hơn trong việc cất lên tiếng nói của Sự thật, Công lý và chấp nhận những khó khăn, nguy hiểm khi làm được điều gì đó để Giáo hội chúng ta lớn mạnh vững vàng thật sự trước mọi biến cố, hầu đi đúng con đường Thầy Chí Thánh Giêsu đã kêu mời, chỉ hướng cho chúng ta: “Sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,32)

Với tinh thần đó, xin anh chị em và các độc giả cầu nguyện nhiều cho chúng tôi.

Ngày 14/5/2010
Nữ Vương Công Lý

May 21, 2010

TIN VUI HAY TIN BUỒN

Filed under: Tôn Giáo,Vietnam — tdnl @ 6:31 pm

Thiên Hạ Sự

Người nào đánh đổi quyền tự do căn bản để có sự bình an tạm thời, người đó không xứng đáng được hưởng sự tự do cũng như sự bình an.” (Benjamin Franklin)

– Anh ơi, ông cha Nhơn được Tòa Thánh bổ nhiệm làm Phó Tổng Giám Mục Hà Nội rồi….

Tôi đang cắt cỏ. Tiếng máy chạy xìn xịt không đủ át tiếng nói của nhà tôi. Điều này chứng tỏ bà xã đã… la to lắm, gần như hốt hoảng. Tôi ngừng lại, tắt máy. Chưa kịp hỏi thì nhà tôi nói tiếp:

– Em mới nhận được tin từ X. VietCatholic News cũng đăng tin sáng nay, có cả thông cáo của TGP Hà Hội nữa.

Tôi lặng người trong giấy lát. Tê liệt. Chán chường. Cái cảm giác gần giống như khi nghe tin Dương Văn Minh ra lịnh cho binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa buông súng đầu hàng Việt Cộng tháng tư 35 năm trước. Thật sự chúng tôi đã biết tin này từ tối thứ hai 19-04 do một người bạn chuyển gởi một điện thư từ Pháp. Chúng tôi hiệp ý cầu nguyện, mong tin này chỉ là tin… Vịt Cồ, dù điện thư nói “theo nguồn tin rất thân cận từ Tòa Thánh.”

Điện thư nói rõ, Đức TGM Ngô Quang Kiệt sẽ xin từ chức vì “lý do sức khỏe,” vài tháng sau khi GM Nguyễn Văn Nhơn nhận chức Phó TGM Hà Nội, và với quyền kế vị được cả Vatican và nhà cầm quyền Hà Nội chấp nhận, Phó TGM Nguyễn Văn Nhơn sẽ trở thành TGM Hà Nội. Thuận buồm xuôi gió. Êm ru bà rù. Đây cũng có thể là lý do Đức Cha Ngô Quang Kiệt kết thúc chuyến đi trị bịnh tại Roma sau hơn một tháng, theo lịnh Vatican, để cho mọi việc diễn biến… có vẻ thật bình thường!? (Điện thư còn hé lộ thêm Giám mục “không biết ăn nói” Mỹ Tho Bùi Văn Đọc sẽ thay thế Hồng Y “cờ vàng mang tính đối kháng” Phạm Minh Mẫn làm Tổng Gíám Mục Sai Gòn khi Hồng Y về hưu năm nay.)

Lần này tập đoàn cầm quyền Hà Nội có được một TGM rất vừa ý. Giám mục giáo phận Đà Lạt là một trong bốn “ứng viên TGM Hà Nội sáng giá” được dư luận tín hữu công giáo VN nhắc đến từ sau vụ cướp đất Tòa Khâm Sứ và Thái Hà. Đừng quên Vatican là một quốc gia, và về phương cách ngoại giao, Vatican cũng thường dùng đường lối “đi đêm,” “đổi chác” như mọi quốc gia khác. Qua sự bổ nhiệm nầy, Vatican đã không theo truyền thống có từ hơn 15 năm qua là bổ nhiệm giám mục về giáo phận hay vùng sinh quán của mình, nhất là các giáo phận miền Bắc. Giám mục Nguyễn Văn Nhơn sinh ở Đà Lạt, nhưng được lòng tập đoàn cai trị Hà Nội. Yếu tố chánh trị đã thắng thế.

Trong lịch sử hiện tại VN, không phải lúc nào quốc gia Vatican cũng công bằng, cũng đứng về phía dân tộc VN. Đức Giáo Hoàng viếng thăm VN lúc này có lợi cho ai? Dân tộc VN, giáo hội VN, hay đảng CSVG được tiếng là có tự do tôn giáo? Nếu chấp nhận điều kiện của Việt Cộng để tập đoàn cầm quyền Hà Nội “cho phép” mời Đức Giáo Hoàng thăm viếng VN năm nay trong dịp Năm Thánh 2010 đánh dấu 50 HĐGMVN thành lập thì đó là lối suy nghĩ của… đứa bé lên 5, không phải của người trưởng thành đã tròn 50 tuổi! Điều gì có lợi cho Vatican không hẳn có lợi cho dân tộc Việt Nam, giáo hội Việt Nam…

Phó TGM Nguyễn Văn Nhơn 72 tuổi, làm phó cho TGM Ngô Quang Kiệt 58 tuổi, trẻ tuổi nhưng “thiếu sức khỏe” thì dù là Phó TGM nhưng vẫn như là TGM vì có hậu thuẫn của đảng Cộng Sản cầm quyền. Từ nay, Phạm Quang Nghị, bí thư thành ủy Hà Nội, Nguyễn Thế Thảo, chủ tịch cái gọi là UBND thành phố Hà Nội, và bộ chánh trị đảng quần chúng tự phát có quyền ăn no ngủ kỹ, tha hồ bán đất Nhà Chung cho đại gia đỏ, tài phiệt Tàu Cộng và ngay cả bán nước, không còn sợ giáo dân Hà Nội, Thái Hà cầu nguyện đòi Hòa Bình và Công Lý, tha hồ ban phát ân huệ cho TGP Hà Nội để giáo dân biết ai là chủ nhân ông thật sự của đất nước này!

Tấm ảnh do báo chí, đài truyền hình CSVG phổ biến tháng 8-2009 về cuộc gặp gỡ xã giao của thừa tướng CHXHCNVN Nguyễn Tấn Dũng với chủ tịch HĐGMVN, Giám mục Nguyễn Văn Nhơn, vẫn cứ ám ảnh tôi: hai người bạn cố tri, đồng tâm hợp ý, tay bắt mặt mừng, tôi giúp anh, anh giúp tôi, chúng ta cùng “đồng hành với dân tộc!”

Bức ảnh hé lộ chút nào về đường lối lãnh đạo TGP Hà Nội của GM Nguyễn Văn Nhơn?

Từ đầu năm 2007, sau vụ TGM Stanislaw Wielgus ở Ba Lan bị cáo buộc cộng tác, điềm chỉ viên cho cơ quan Mât Vụ Ba Lan để được hưởng đặc quyền đặc lợi, nhiều tín hữu VN băn khoăn đặt câu hỏi “Ai là Wielgus của Giáo Hội Việt Nam thời cộng sản Việt gian?” Qua thái độ, cách hành sử, phản ứng của HĐGMVN trước những thảm cảnh dân oan bị đàn áp, cướp đất, thánh giá, tượng thánh bị đập phá, đất Nhà Chung, nhà xứ, giáo phận bị cướp bán cho tài phiệt nước ngoài, nhất là việc CSVG hiến dâng đất, đảo và biển cho Tàu Cộng…, câu hỏi không còn là “Có Wielgus trong giáo hội VN hay không?” mà là “NHỮNG NGƯỜI ĐÓ LÀ AI?”

Điều chắc chắn là với Phó TGM/TGM Nguyễn văn Nhơn thì TGP Hà Nội sẽ đồng hành với Phạm Quang Nghị, Nguyễn Thế Thảo, đạo đời cùng hướng về một mục tiêu… “tốt đời đẹp đạo.” Con đường Hồng Y, áo đỏ trong tầm tay… Cố vấn tôn giáo của Nguyễn Tấn Dũng, một giám mục về hưu, đóng vai trò nào trong “cuộc sắp xếp lịch sử nầy?”

Năm nay, 2010, tập đoàn cầm quyền Hà Nội ăn mừng 1000 năm Thăng Long và Giáo Hội Việt Nam/HĐGMVN kỷ niệm 350 năm đạo Chúa vào đất Việt và 50 năm Hội Đồng Giám Mục Việt Nam được chánh thức thành lập. Tháng 4, 35 năm trước, Việt Nam Tự Do mất vào tay tà quyền Việt Cộng. Chưa đủ, tháng 4 năm nay, 35 năm sau, « sự cố tôn giáo » ảnh hưởng đến dân tộc Việt Nam, Giáo Hội Việt Nam, hậu quả tương lai không ai lường được, nhưng lành ít dữ nhiều… Ngẫu nhiên hay tiền định?

Thế gian không phải là thiên đàng nên con người ở thế gian, dù đời hay đạo, vẫn có nhiều gian dối trong lối nghĩ và hành động! Giáo hội Việt Nam không cần thầy giảng mà cần gương sáng. Giáo dân Việt Nam không cần những mục tử làm thuê mà cần những mục tử nhân lành sống chết với đàn chiên.

Thiên Hạ Sự

May 19, 2010

Cuộc thắng thua trong ván cờ Giám Mục

Filed under: Tôn Giáo,Vietnam — tdnl @ 6:57 pm

Không ai trong giới truyền thông lại phủ nhận sự kiện thời sự nóng bỏng của xã hội Việt nam trong thời điểm nầy: Tình hình nhân sự trong hàng Giáo Phẩm Việt Nam. Cho dù nội dung sự kiện hoàn toàn thuộc lãnh vực tôn giáo. Tuy nhiên, những hệ lụy của nó đã kéo theo cả một cơn sóng mang tính chính trị-xã hội rất đặc biệt. Bởi chưng, sự kiện nầy có liên quan đến một tập thể giáo dân Công Giáo đến 7 triệu người, trong khi tầm ảnh hưởng tinh thần của nó lại âm vang đến mọi thành phần xã hội, đến giới trí thức, đến lực lượng những nhà dân chủ tranh đấu cho tự do nhân quyền và chủ quyền của Đất nước Việt nam, đến cộng đồng những người Việt ở hải ngoại…

1. Trong một bối cảnh xã hội-chính trị như thế.

Trước khi đi vào chính đề, chúng ta cần ghi nhận một số sự kiện chính trị-xã hội-tôn giáo có liên quan và ảnh hưởng xa gần.

• Đảng Cộng Sản Việt Nam đang ráo riết chuẩn bị cơ cấu nhân sự cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng sẽ diễn ra vào nửa đầu tháng 1/2011.

• Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long (1010-2010)

• Hội nghị Thượng đỉnh Phật Giáo (dự kiến diễn ra từ ngày 20-25/11/2010)

• Năm Thánh Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam.

Còn nếu tính đến các vấn đề nhạy cảm trong bối cảnh chính trị hiện thời tại Việt Nam, thì có thể liệt kê vài sự kiện lôi kéo sự quan tâm của quốc tế và quốc nội:

• Chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, biên đảo của Việt nam trong tương quan với Trung Quốc.

• Ý đồ của Trung Quốc tại Việt Nam qua con đường đầu tư khai thác bô-xít, mướn đất trồng rừng, xây dựng các trung tâm giải trí-thương mại…

• Phong trào của giới trí thức và các nhà dân chủ lên tiếng tranh đấu cho chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải, biên đảo của Đất nước, đời sống tự do nhân quyền của người dân, tính chính danh của Đảng Cọng Sản Việt Nam và sự giải thể ý thức hệ Mác-Lê trong đời sống xã hội.

Điểm qua một số các sự kiện chính trị-xã hội-tôn giáo như trên, để chúng ta có một cái nhìn tương đối khách quan và tổng thể về một “sự cố xã hội” thuộc Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam đang thu hút sự quan tâm của nhiều người và được mổ xẻ, bình luận tương đối nhộn nhịp trên các phương tiện truyền thông.

2. Không là một câu chuyện nội bộ của người Công Giáo Việt nam

Nếu ai nghĩ rằng, cả những người trực tiếp trong cuộc, xem sự kiện Tòa Thánh bổ nhiệm Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Giám Mục Đà Lạt, đương kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Việt nam về làm Phó Tổng Giám Mục Hà Hội, và sự việc “nguyên” Đức Tổng Giám mục Mục Giuse Ngô Quang Kiệt vừa từ nhiệm để đi chữa bệnh, chỉ là một sự kiện tôn giáo đơn giản, bình thường, thuộc nội bộ của Giáo Hội Công Giáo, không liên quan gì đến bối cảnh sinh hoạt xã hội chính trị Việt nam và cả trên toàn thế giới, thì thật quá ngây thơ, nếu không nói là một sự “thờ ơ và tránh né thiếu trách nhiệm”.

Bởi chưng, ngay trong nguyên tắc nền tảng mang tính thần học được thiết chế vững chắc và đầy đủ với Hiến Chế Mục Vụ “Vui Mừng và Hy Vọng” của Công Đồng Vatican II, thì: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ. Thực vậy, cộng đoàn của họ được cấu tạo bằng những con người đã được qui tụ trong Chúa Kitô, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn trong cuộc lữ hành về Nước Cha và đã đón nhận tin mừng cứu rỗi đem tới cho mọi người. Vì thế, cộng đoàn ấy mới nhận thấy mình thực sự liên hệ mật thiết với loài người và lịch sử nhân loại”[1]

Cho nên, xét về chiều kích mục vụ của Hội Thánh Công Giáo, việc được bổ nhiệm hay từ nhiệm của một vị Mục Tử thuộc hàng Giáo phẩm hay giáo sĩ, nhất là những vị đang nắm giữ những cương vị trọng yếu, thì điều cốt yếu không nhằm giải quyết yêu cầu cá nhân của đương sự mà là yêu cầu mục vụ của Dân Chúa. Trong trường hợp nầy, là yêu cầu mục vụ của Tổng Giáo Phận Hà Nội, và rộng hơn, của Giáo Hội Việt Nam.

Chúng ta nhận rõ điều nầy trong nội dung Tông Sắc Bổ nhiệm Đức Tổng Giám Mục Phó Phêrô Nguyễn Văn Nhơn của Tòa Thánh đó là “lo liệu thích đáng hơn cho đàn chiên” (Xin trích):

“Thói quen của các Đấng Kế Vị Phêrô là nhận lời các vị Lãnh đạo Giáo Hội khi các ngài xin được giúp đỡ vì lý do chính đáng. Lúc nầy Hiền Đệ đáng kính Giuse Ngô Quang Kiệt, Tổng Giám Mục Tổng Giáo phận Hà Nội đã xin cho mình một Tổng Giám Mục Phó để có thể lo liệu thích đáng hơn cho đàn chiên.”[2]

Tuy nhiên, nếu sự thay đổi, hay bổ nhiệm Giám Mục ở vào một thời điểm và một nơi chốn bình lặng, không có những phức tạp mục vụ và rắc rối chính trị liên quan, thì mọi sự sẽ diễn ra trong sinh hoạt bình thường, không có gì phải trăn trở, bàn luận.

Nhưng lần bổ nhiệm Phó Tổng Gám Mục Hà Nội nầy đã không diễn tiến cách bình thường. Và đây là 3 điểm nhấn “không bình thường” đó:

– 1). Biến cố nầy đi theo một chuổi các sự kiện khác [3], mà theo lý giải của nhiều nhà phân tích và dư luận truyền thông, đây là giải pháp cuối cùng cho một “kịch bản phức tạp” mà nạn nhân hay con chốt thí chính là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, là Hội Thánh Công Giáo Việt Nam, như nhận định của chính Đức Cha Giuse Nguyễn Chí Linh, trong diễn văn chào mừng trong thánh lễ Nhậm chức của Đức Phó Tổng tại Hà Nội hôm 7.5.2010:

“Không thể phủ nhận được rằng việc bổ nhiệm này đã gây ra một số tranh cãi trong những ngày vừa qua. Có người bi quan cho đó là sai lầm của Toà Thánh Vatican, là dấu hiệu của một Hội đồng Giám mục Việt Nam đang bị phân hoá, bị khuynh loát, thậm chí là một trang sử buồn cho Giáo Hội Việt Nam và cách riêng, cho Tổng giáo phận Hà Nội.”

– 2). Biến cố nầy phải đối diện với một thực trạng mục vụ và chính trị đầy phức tạp, phân hóa và nhiễu nhương trên địa bàn Tổng Giáo phận Hà Nội mà địa điểm chính là Thủ Đô nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Sau đây là một vài đơn cử:

• Sự mệt mõi của cộng đồng Dân Chúa Hà Nội sau bao nhiêu cuộc tranh đấu bất thành kéo dài từ vụ Tòa Khâm, đất Thái Hà đến Thánh Giá Đồng Chiêm.

• Sự cương quyết loại trừ Đức Tổng Giuse khỏi Hà Nội của cấp lãnh đạo thủ đô, của đảng Cọng Sản.

• Sự đố kỵ của đồng bào Phật Giáo và các anh em khác đối với Công Giáo sau những chiến dịch tuyên truyền bài xích rầm rộ của ngành truyền thông nhà nước.

– 3). Biến cố nầy đan xen với nhiều sự kiện xã hội chính trị mang tính đối kháng với nhà nước đương quyền:

• Vụ trấn áp thiền viện Bát Nhã, đã gây ra một vết thương lớn trong lòng Giáo Hội Phật giáo Việt nam.

• Trong khi trước đó, đã nổ ra những cuộc biểu tình bất thành của sinh viên Hà Nội cũng như Sài Gòn phản đối Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng-Trường Sa.

• Những phê bình, góp ý của các nhân vật quan trọng, các nhà trí thức về vụ Bô-xít Tây Nguyên, về các hợp đồng cho Trung Quốc và các nước khác thuê đất trồng rừng dài hạn, xây dựng các khu vui chơi giải trí…

• Các cuộc nổi dậy đòi chủ quyền đất của đồng bào dân tộc Tây Nguyên, của nông dân Nam Bộ, Trung và cả Bắc Bộ, các cuộc khiếu kiện tập thể của dân oan.

• Rồi đồng thời với các sự cố xã hội nổi cộm trên là sự xuất hiện càng lúc càng đông các tiếng nói phản biện và đòi dân chủ, tự do nhân quyền, đòi xét lại tính chính danh của quyền lảnh đạo của Đảng Cọng Sản, đòi giải thể ý thức hệ Mác-Lê… của các nhà trí thức trong cũng như ngoài nước, là đảng viên hay các nhân sĩ trí thức bình thường mà cao điểm là những cuộc trấn áp qua các bản án máy móc và vội vàng [4], đập phá các websites, khủng bố tinh thần và thể chất các đương sự…

Nếu gộp chung tất cả những sự kiện trên để nhìn dưới một lăng kính chính trị mang tính đố kỵ, hẹp hòi và thủ cựu mà đã trở thành “tội nguyên tổ’ của các chế độ độc tài Cọng Sản, thì có thể gọi tên đó là: “Diễn biến hòa bình”[5] (Xin trích)

“Từ năm 1945, hệ thống các nước XHCN được thiết lập trên khắp các châu lục. Ðể chống lại xu hướng lịch sử đó, đế quốc và các nước phản động khác (đứng đầu là đế quốc Mỹ), tìm mọi cách kéo giáo hội các tôn giáo vào cuộc chiến tranh “diễn biến hòa bình”, nhằm xóa bỏ chế độ XHCN, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản ở các nước này.

Bằng cách lập ra những trung tâm thông tin, đêm ngày phát sóng tuyên truyền phát triển đạo, nói xấu Ðảng Cộng sản, kích động chiến tranh tôn giáo, chiến tranh sắc tộc, kêu gọi tín đồ đấu tranh đòi tự do tôn giáo, đòi tách giáo hội khỏi sự kiểm soát của Nhà nước XHCN, gây mất ổn định chính trị xã hội nhằm tạo thời cơ để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước đó…

Từ 1985 đến nay, thủ đoạn này được chúng sử dụng một cách triệt để. Hệ quả của nó là ở một số nước chính quyền không kiểm soát nổi dân, có nước bị chia cắt thành nhiều quốc gia nhỏ, vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản bị lu mờ (ví dụ Liên bang Nam Tư…).

Với những thủ đoạn nêu trên, có thể nói bọn đế quốc đã thành công trong việc lợi dụng vấn đề tôn giáo và dân tộc, tạo thành một đòn tấn công hiểm hóc vào một số nhà nước XHCN ở Ðông Âu, và Liên Xô, phối hợp với các mũi tiến công khác làm sụp đổ XHCN ở các nước này. Ngoài ra, chúng còn gây ra tình hình phức tạp ở nhiều khu vực khác như Tây Á, châu Phi, và nhiều nước như Ấn Ðộ, Trung quốc, Việt Nam, Mianma…” (Hết trích)

3. Khi thế cờ đã chuyển

Trên mặt trận xã hội và ý thức hệ, quả thật, đồng bào Công Giáo, đặc biệt tại thủ đô Hà Nội và tại giáo phận Vinh, đã có lúc giành thế thượng phong trong việc đối đầu với lực lượng hùng mạnh của nhà nước mà đại diện là hàng trăm cảnh sát cơ động được trang bị tận răng với dùi cui, lựu đạn cay và chó nghiệp vụ. Hình ảnh của hàng ngàn người tay cầm cạnh vạn tuế biểu tình ôn hòa qua các con đường Hà Nội để đến dự phiên tòa các giáo dân tranh đấu, hay hình ảnh cả trăm ngàn người giáo dân giáo phận Vinh tuôn về Tòa Giám Mục Xã Đoài để mừng lễ Bổn mạng giáo phận với biểu ngữ liên đới với Tam Tòa mà không một lực lượng an ninh nào của nhà nước ngăn cản được, đã cho thấy sức mạnh tập thể của Giáo Hội Công Giáo lớn lao như thế nào.

Cũng trong thời điểm nhạy cảm đó, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã công bố một bản “Quan Điểm”[6] như là một “cú thăm dò” trong cuộc đấu tranh ý thức hệ mà điểm nhấn đó là “quyền tư hữu đất đai”:

“Việc sửa đổi này cần phải quan tâm tới quyền tư hữu của người dân như Tuyên ngôn Quốc tế của Liên Hiệp Quốc về Nhân quyền đã khẳng định: “Mọi người đều có quyền tư hữu cho riêng mình hay chung với người khác… và không ai có thể bị tước đoạt tài sản của mình cách độc đoán” (số 17). Vì thế, chúng tôi cho rằng thay vì chỉ giải quyết theo kiểu đối phó hoặc cá biệt, thì giới hữu trách phải tìm giải pháp triệt để hơn, tức là để người dân có quyền làm chủ tài sản, đất đai của họ, đồng thời người dân cũng phải ý thức trách nhiệm của mình đối với xã hội. Đòi hỏi này lại càng khẩn thiết hơn trong bối cảnh toàn cầu hoá ngày nay, khi Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nhịp sống chung của thế giới. Đây sẽ là tiền đề cho việc giải quyết tận gốc những vụ khiếu kiện về đất đai và tài sản của người dân, đồng thời góp phần tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế và sự phát triển vững bền của đất nước.”

Qua những sự kiện trên, quả thật, hình ảnh của Giáo Hội Việt Nam đã phần nào được nhiều người trong cũng như ngoài nước nể trọng và là nơi để họ đặt niềm hy vọng. Niềm hy vọng sẽ là điểm quy tụ, nối kết các lực lượng dân chúng không chịu cúi đầu thuần phục dưới sự lãnh đạo độc tài của Đảng Cộng Sản để tìm một hướng canh tân dân chủ hóa đất nước.

Phải chi trước cái thế “thượng phong” nầy, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam mà người đại diện chính là Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đồng lòng, hiệp nhất đi thêm một nước cờ, chấp nhận trả giá cho những thiệt thòi của bản thân, liên đới tích cực và mạnh mẽ với mọi thành phần thức thời trong nước chĩa mũi dùi tiến công sang mặt trận dân chủ, nhân quyền và chủ quyền quốc gia, liên đới với các tôn giáo bạn (chẳng hạn trong biến cố Bát Nhã), đoạn tuyệt dứt khoát với ý thức hệ Mác-Lê, đứng hẳn về phía những người nghèo nông dân và dân tộc ít người… thì chắc chắn sẽ có những chuyển biến lớn trong xã hội Việt nam hôm nay, hay ít ra, sẽ khẳng định dứt khoát vai trò quan trọng và vị thế cao quý của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam. Nhưng Giáo Hội Công Giáo đã không tận dụng được cơ hội ngàn năm một thuở nầy. Hội Đồng Giám mục Việt nam đã im lặng thúc thủ. Và như thế, thế cờ đã bị lật ngược.

Kể từ khi nhà cầm quyền Việt Nam nhận được tín hiệu từ “tín thư tháo ngòi nỗ” của Đức Hồng Y Bertone để giảm nhiệt cho điểm nóng Tòa Khâm và đất Thái Hà, kế tiếp là cuộc yết kiến của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng với ĐGH đương kiêm Bênêđictô XVI, và nối tiếp là một lô những “ân huệ” dành cho Công Giáo: trả lại nhiều hecta đất cho linh địa La Vang, cho Tòa Giám Mục Đà Lạt, tạo điều kiện thuận lợi để Công Giáo xây dựng các cơ sở to lớn như Tòa Giám Mục và ĐCV Xuân lộc, các cơ sở mục vụ Bắc Ninh, Bùi Chu, Thái Bình, rồi với một số các giám mục trẻ được tấn phong… coi như cuộc đối đầu nguy hiểm của thế lực Công Giáo với nhà nước Cọng Sản không còn là vấn đề quan trọng nữa.

Trong khi đó, với thủ đoạn nhà nghề đã sở hữu và thực hành nhuần nhuyễn, nhà nước Cọng Sản bắt đầu “bắn tỉa” và phân hóa Giáo Hội Công Giáo qua mặt trận ngoại giao và truyền thông.

Và kết quả là họ đang ở thế thượng phong. Biểu tượng “Ngô Quang Kiệt” đã bị bứng khỏi Hà Nội; Đức Tổng Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, đương kim CT/HĐGMVN được tiếp đón bằng những biểu ngữ tiếp đón không thiện cảm và bị đánh phá tơi bời hoa lá trên các mạng truyền thông; các chức sắc khác trong hàng ngũ HĐGMVN lần lượt bị đưa “lên đoạn đầu đài”… Giáo Hội Công Giáo Việt Nam hôm nay chỉ còn là một trò cười trơ trẽn trong con mắt của nhiều cán bộ Cộng Sản và là nổi thất vọng mênh mông của nhiều trái tim đầy nhiệt huyết muốn đồng hành cùng Giáo Hội để quyết tử cho một đất nước Việt nam quyết sinh.

Cho dù có vớt vát cách nào như nội dung bài diễn từ [7] của Đức Giám Mục Thanh Hóa trong thánh lễ nhậm chức của Đức Tổng Phó Phêrô, thì cuộc cờ đã xuống thế hạ phong của Công Giáo không còn che dấu được. (Xin trích)

Nhưng nếu suy nghĩ một cách lạc quan, chúng ta cũng có thể rút ra những kết luận rất tích cực từ biến cố này. Điểm tích cực đầu tiên là mọi thành phần Dân Chúa đã có cơ hội nói lên nguyện vọng của mình một cách chân thành, đồng thời cũng có kinh nghiệm sâu sắc hơn về vai trò và sứ mệnh của các phương tiện truyền thông thời hiện đại. Kỷ niệm 50 năm thành lập, Hàng Giáo phẩm Việt Nam bước vào một giai đoạn mới qua đó, các bậc chủ chăn được lắng nghe tiếng nói cộng đồng Dân Chúa cách phong phú và cụ thể hơn, đồng thời cũng học được bài học biện phân cách bình tĩnh hơn đối với những thông tin mỗi lúc một đa dạng, đa chiều và phức tạp hơn.

Điểm tích cực thứ hai là dù khác biệt, thậm chí có khi là đối lập, nhưng tất cả mọi quan điểm đều có một mẫu số chung là lòng yêu mến Giáo Hội. Suy nghĩ và cách biểu hiện khác nhau, nhưng lòng yêu mến vẫn là một. Trong bối cảnh và tinh thần Năm Thánh 2010, chúng ta hãy xem đây là cơ hội sống tình hiệp thông cách đặc biệt hơn: chúng ta cần phải can đảm hơn khi đối diện với các dị biệt, chúng ta cần phải mổ xẻ chuyện Giáo Hội cách rốt ráo hơn, công khai hơn, nhưng đồng thời trải nghiệm được cái giá phải trả để bảo vệ tình huynh đệ trong đại gia đình Giáo Hội.

Chắc chắn là ai trong chúng ta cũng đều muốn sự tốt đẹp cho Giáo Hội. Nhưng nếu vì yêu mến Giáo Hội mà chúng ta loại trừ nhau thì không còn gì mâu thuẫn bằng. Khác biệt nhau nhưng vẫn sẵn sàng nhường nhịn, yêu thương nhau, vì một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền, đó mới là dấu chỉ chúng ta còn thuộc về Giáo Hội do Chúa Kitô thiết lập.

4. Thử tìm một số nguyên nhân thua thắng trên ván cờ hiện nay

Với tình hình hiện nay, có thể nói được, Giáo Hội Công Giáo đang là kẻ thua cuộc.

Chắc có nhiều người sẽ tự hỏi: “Trước biến cố đau buồn nầy, chúng ta, những người Công Giáo Việt Nam, đang sốt sắng cử hành Năm Thánh 2010 mà bước đầu tiên là “đọc lại lịch sử”, những trang sử hào hùng của cha ông, sẵn sàng đổ máu vì đức tin, phải làm những gì ?”

Cứ để cho các bà mẹ đạo đức áp dụng thuộc lòng kinh “Tám Mối Phúc Thật” mà tự an ủi với điều “phúc cho ai bị bách hại vì chính đạo…”, hay để cho các giám mục, linh mục bằng cấp chữ nghĩa thần học đầy mình tiếp tục ca bài vọng cổ “Chúa Thánh Thần có cái lý của Ngài”, và để cho các đấng chức cao quyền trọng tại giáo triều Rôma hay tại các Tòa Giám mục sang trọng vỗ ngực nghênh ngang “Phêrô, con là đá, trên đá nầy Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy và các thế lực hỏa ngục không thắng nổi”. Còn chúng ta, những giáo dân, linh mục tay lấm chân bùn, thường ngày đối diện với bao nổi oan khiên bức xúc do cái chế độ độc tài đảng trị thối nát tham nhũng bày ra, chúng ta biện phân rõ ràng: “Của César trả César. Của Thiên Chúa trả Thiên Chúa”.

Nhưng với nguyên tắc “biết người biết ta”, trước khi đề xuất công tác “Của César trả César”, chúng ta lại cần thử phân tích thêm đâu là những lý do khiến Giáo Hội Công Giáo phải tuột xuống thế hạ phong và đâu là những yếu tố giúp cho nhà nước Cộng Sản Việt Nam chiếm thế thượng phong.

Lý do thứ nhất được cánh truyền thông mổ xẻ đó là: quyết định bổ nhiệm Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn thay thế Đức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt của Vatican trong bối cảnh xã hội chính trị tại Hà Nội như hiện nay là một nóng vội đầy thất sách, nếu không nói là một sai lầm trầm trọng. Việc chấp thuận đơn xin từ chức của Đức Cha Kiệt đó là điều chính đáng. Đáng lẽ điều nầy cần được thông báo rõ mà không cần phải úp mở dấu diếm. Tại sao không thẳng thắn nói rằng, lý do Đức Cha Kiệt từ chức vì sức khỏe yếu đi trầm trọng do những áp lực của chính quyền dân sự trong cuộc tranh đấu cho quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam và chủ quyền của Giáo Hội trên những tài sản và cơ sở thờ tự của Giáo Hội địa phương. Trong khi đó, còn có bao nhiêu giải pháp khác để đáp ứng tình trạng một giáo phận trống tòa. Đâu cần gì cứ phải điều một Giám Mục khác để thay thế, một giải pháp mà có lẽ chính quyền thủ đô Hà Nội đang dài cổ trông mong để ít ra bộ mặt văn hóa nhân quyền của Hà Nội đỡ trơ trẻn trong đại lễ mừng 1000 năm Thăng Long. Và do đó, người ta có lý do để cho rằng: Đức Cha Nhơn chính là một “con đê tế thần” trong cuộc mặc cả ngoại giao giữa tòa thánh Vatican và nhà nước Việt Nam. Nội dung cuộc trả treo của đôi bên có thể là: Tổng Giáo Phận Hà Nội cần một giám mục ôn hòa để làm tiền đề khai thông lộ trình tiến đến quan hệ ngoại giao của Vatican và Việt Nam. Đứng trước một mục tiêu lớn nầy của Giáo Hội, làm sao Đức Cha Nhơn có thể từ chối. Và như thế, tiếng của dân (vox populi) đành chịu hiến tế trước “tiếng của Chúa” (vox Dei) mà người phát ngôn chính thức chính là Tòa Thánh Vatican. Điều nầy Đức GM Thanh Hóa có nhắc tới trong bài diễn từ hôm 7.5:

Quyết định của Đức Thánh Cha có thể không đáp ứng được sự chờ đợi nhân loại của một số con cái, nhưng vẫn là quyết định của Đấng Đại Diện Đức Kitô trên trần gian. Giáo Hội chỉ là Giáo Hội, Toà Thánh chỉ là Toà Thánh một khi chúng ta có khả năng chấp nhận chiều kích siêu phàm của Giáo Hội. Điều đó đòi buộc chúng ta phải hiến tế quan điểm riêng của mình để đón nhận và tuân phục Thánh Ý đấng thay mặt Chúa Giêsu, Đấng thiết lập Giáo Hội.”[8]

Thế nhưng có người lại lý luận rằng: Tòa Thánh sở dĩ có quyết định như thế cũng phải tham khảo ý kiến các chuyên viên tư vấn về Giáo Hội Việt Nam, hoặc thông qua HĐGMVN, hoặc những chuyên viên về Việt Nam tại Giáo triều. Và người được xem là “kiến trúc sư” cho “kế hoạch mục vụ Hà Nội” là Đức ông Cao Minh Dung. Không biết có thực sự là như thế không ? Nhưng nếu quả thật Tòa Thánh chỉ nghe ý kiến của một người không hiện diện tại Việt nam, chưa có những kinh nghiệm xương máu về chế độ độc tài cộng sản, mà quyết định như thế, thì thật là thiếu sót. Và điều nầy, cần phải đặt lại vai trò cố vấn cho Tòa Thánh của HĐGMVN. Đứng trước một vấn đề mục vụ nan giải và phức tạp của Tồng Giáo Phận Hà Nội, là biểu trưng cho bối cảnh chung cả Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam, HĐGMVN phải có tiếng nói tích cực, cụ thể và đầy trách nhiệm để giúp Tòa Thánh có những quyết định đúng đắn cho chính Giáo Hội Việt Nam.

Có thể nói đó là lý do thứ hai khiến cho Giáo Hội Công Giáo Việt nam thất bại trước người cộng sản. Bởi chưng, với cung cách điều hành và làm việc như hiện nay, chắc chắn HĐGMVN chỉ có thua mà thôi chứ không thể thắng được “sự ranh ma của con cái thế gian” mà đại biểu chính thức nắm quân cờ là Đảng Cộng Sản Việt Nam. Chúng ta hãy đọc thử những nỗ lực và phương pháp mà người cộng sản dùng để độc chiếm quyền lãnh đạo:

Chúng ta phải nghiên cứu tất cả những tư tưởng gia vĩ đại trong việc chiếm đoạt quyền lực và duy trì vị trí độc tôn, từ Tôn Tử, Ngô Khởi, Trương Tử Phòng, Lý Tư… và Mao Trạch Đông ở phương Đông, cho đến Machiavelli – tác giả cuốn cẩm nang ‘The Prince’ nổi tiếng ở phương Tây, thậm chí cả Napoleon, Hitler, Stalin… hoặc Hugo Chavez thời nay. Tất cả đều có những điều rất đáng để chúng ta học hỏi, từ nghệ thuật mị dân cho đến những thủ đoạn cứng – mềm linh hoạt trong việc đối phó với địch, và cả những sai lầm chiến thuật của các vị này.

Phải làm sao để chúng ta vẫn trấn áp được đối lập dân chủ, nhưng vẫn không làm sứt mẻ quan hệ ngoại giao đang ngày một tốt hơn với Hoa Kỳ và phương Tây – vốn là những kẻ đạo đức giả, duy lợi và thực dụng nhưng thích rao bán tấm áo ‘dân chủ tự do’ cùng với những khẩu hiệu cao đẹp khác.

Tuy nhiên, chúng ta cần phải khái quát những luận điểm của Machiavelli để có thể áp dụng cho một chế độ, một đảng phái có cơ cấu phức tạp, chứ không phải là một nhà độc tài quân phiệt giản đơn.

Một nhà độc tài dù tàn độc đến đâu, ranh ma đến đâu, thì cũng chỉ là một kim tự tháp trên sa mạc, tĩnh lặng và không tiến hóa – nên trước sau cũng sẽ để lộ sơ hở chết người. Nhưng một đảng chuyên quyền thì luôn luôn biến động, thay đổi và lớn lên không ngừng; biết bù đắp khiếm khuyết, che dấu yếu điểm, phô trương sức mạnh một cách vô cùng linh động… và đặc biệt có đủ tài lực và nhân lực để lan tỏa chân rết đến mọi ngõ ngách của xã hội, kiểm soát cả dạ dày lẫn linh hồn của nhân dân.”[9]

Với một đối thủ ranh ma, quỷ quái và tàn độc như thế, nếu chỉ một mực “đơn sơ như chim câu” mà không biết “khôn ngoan như con rắn” thì chỉ có từ chết đến bị thương. Hiện tại, Giáo Hội Công Giáo Việt nam đang bị thương trầm trọng chắc chắn một phần vì các vị mục tử của chúng ta chưa vận dụng đủ công thức “khôn như con rắn” của Chúa Giêsu để “trả cho Cộng Sản những gì thuộc Cộng Sản”.

Chúng ta không thể trách Tòa Thánh là không hiểu rõ bản chất trí trá của nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam nên đã có những quyết định không thích thích hợp; mà chúng ta hãy tự đấm ngực để nhận lấy thiếu sót vì chưa tích cực và trách nhiệm đủ trong việc phản ảnh đúng mức và tiên liệu chính xác những thực trạng mục vụ, chính trị và xã hội Việt nam để giúp Tòa Thánh đưa ra những định hướng và quyết định đúng đắn và ích lợi cho Giáo Hội cũng như đất nước Việt Nam.

Giáo Hội Việt Nam hôm nay nói được là có quá nhiều những mục tử khoa bảng. Giáo phận nào cũng đầy dẫy các linh mục, tu sĩ đi du học nước ngoài. Tuy nhiên, gần như không có những nhóm chuyên viên để làm việc chung và nghiên cứu tới nơi tới chốn các chuyên đề mục vụ nóng bỏng và cần thiết để tư vấn cho HĐGM, hầu có cơ sở vững chắc để đáp ứng các yêu cầu bức thiết đang tác động lên đời sống của Dân Chúa. Trong khi đó, mỗi năm HĐGM chỉ gặp nhau có 2 lần mà phần lớn nghị trình chỉ là để bàn thảo những vấn đề mang tính đạo đức truyền thống và nội bộ, không phản ảnh được những trọng điểm mục vụ mang chiều kích “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ”. Phải chăng đó là lý do thứ ba để Giáo Hội Công Giáo Việt nam trở thành người thua cuộc.

5. Đề nghị một thế cờ mới

Để gây lại niềm tin cho cộng đồng Dân Chúa Việt nam, đồng bào Việt Nam, các tôn giáo bạn không nằm trong qũy đạo Cộng Sản, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, thông qua HĐGMVN, cần những bước đi can đảm và mạnh mẽ như sau:

• Không để Giáo Hội rơi vào tình trạng “bị động” để loay hoay đối phó những vấn đề đã rồi. Phải chăng sự thành công của nhà cầm quyền Cọng Sản là đã khiến HĐGMVN bị lôi kéo vào “hồ sơ Tổng Giám Mục Hà Nội” để không còn thời gian mà lưu tâm đến những vấn đề sống còn và an nguy của Đất Nước, đang làm đau đầu các cấp lãnh đạo Cộng Sản hiện nay.

• Cần vượt lên trên những vấn đề chỉ liên quan đến quyền lợi của Giáo Hội (cơ sở, đất đai…) để vươn tới những yêu cầu thiết thân của toàn thể đồng bào Việt Nam: tự do, dân chủ, nhân quyền, y tế, giáo dục, môi trường, quyền lợi của nông dân và các dân tộc thiểu số…

• Phải nói thẳng và nói thật những điều đang ảnh hưởng đến sự tồn vong, phát triển và an nguy của đất nước: ý đồ trắng trợn của Trung Quốc đối với chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải của Việt Nam; sự cần thiết phải giải thể ý thức hệ Mác-Lê là yếu tố đem lại bao đau thương, mất mát, chia rẽ hận thù và chậm tiến cho dân tộc và đất nước; xây dựng một nhà nước pháp quyền dân chủ do dân và vì dân…

• Phải là điểm tựa cụ thể và tích cực cho những người thành tâm thiện chí tranh đấu cho sự thiện, cho lẽ công bằng, cho tự do và độc lập chủ quyền của đất nước.

• Cùng với những chuyên mục mang tính mục vụ xã hội và chính trị, bản thân Giáo Hội rất cần “làm mới chính mình” mà có lẽ bước đi đầu tiên đó chính là: cần bổ sung và điều chỉnh cơ cấu tổ chức, điều hành và cách làm việc của HĐGM sao cho hiệu quả, tích cực và thực sự đáp ứng các yều bức xúc của Giáo Hội và xã hội đương thời.

Có thể lúc nầy, nhà cầm quyền cọng sản tại Hà Nội mở tiệc ăn mừng chiến thắng trong ván bài ngoại giao và truyền thông đối với Vatican và Giáo Hội Công Giáo: chỉ cần một mũi tên bắn vào “Ngô Quang Kiệt” đã làm mất uy tín của Vatican, ít ra là đối với giới Công Giáo và đồng bào Việt Nam, đã khiến Giáo Hội Công Giáo Việt Nam bị đặt trong tình trạng thảm hại (Hàng Giáo Phẩm bị xúc phạm và chắc chắn có sự chia rẽ, niềm tin của giáo dân vào HĐGM giảm sút, sự mệt mõi, ngán ngẩm của mọi thành phần Dân Chúa trước những thông tin bất lợi, Giáo Hội bị đặt trong thế co cụm, lấn cấn, không còn khả năng để tái tập trung đề xuất các chiến lược mục vụ thích hợp mà thụ động loay hoay với các vấn đề mục vụ tại chỗ…).

Và như thế, họ an tâm mà chuẩn bị nhân sự cho kỳ Đại Hội Đảng sắp tới để tiếp tục cai trị độc quyền, an tâm mà tổ chức mừng Thăng Long 1000 năm với tất cả hoành tráng và yên bình, an tâm đưa Phật giáo quốc doanh lên ngôi như biểu hiện rõ nét và cụ thể của tự do tôn giáo và truyền thống văn hóa Việt nam, an tâm mà chấp hành các chỉ thị của Trung Nam Hải trong các nhượng bộ về chủ quyền lảnh thổ và lảnh hải cũng như các hợp động ma quỷ để người Tàu hiện diện cùng khắp trên lãnh thổ Việt Nam, an tâm mà trấn áp các cuộc biểu tình về Trường Sa, Hoàng Sa, về đền bù đất đai và quyền lợi của dân oan, an tâm dập tắt các tiếng nói đòi hỏi tự do, dân chủ, nhân quyền cho đồng bào, an tâm bỏ ngoài tai các tiếng nói phản biện với thiện chí xây dựng đất nước Việt nam độc lập, dân chủ và phát triển vững bền…

Đứng trước hiện tình như thế, liệu những lời của sứ ngôn A-mốt sau đây có làm bận lòng các vị Mục Tử trong Giáo Hội Công Giáo nói chung và trong HĐGMVN nói riêng:

Lễ lạt của các ngươi, Ta chán ghét khinh thường; hội hè của các ngươi, Ta chẳng hề thích thú. Các ngươi có dâng lên Ta của lễ toàn thiêu…những lễ vật của các ngươi, Ta không vui nhận, chiên bò béo tốt các ngươi đem hiến tế, Ta chẳng đoái hoài. Hãy dẹp bỏ tiếng hát om sòm của các ngươi, Ta không muốn nghe tiếng đàn của các ngươi nữa. Ta chỉ muốn cho lẽ phải như nước tuôn trào, cho công lý như dòng suối không bao giờ cạn” (Am 5,21-28)

Khốn cho những kẻ sống yên ổn tại Xi-on, và sống an nhiên tự tại trên núi Sa-ma-ri, họ là những nhà lãnh đạo của dân đứng đầu các dân khiến nhà Ít-ra-en phải đến cầu cạnh. Chúng nằm dài trên giường ngà, ngả ngớn trên trường kỷ, mà ăn những chiên non nhất bầy, những bê béo nhất chuồng. Chúng dàn hát nghêu ngao; như Đa-vít, chúng dùng nhạc cụ mà sáng tác. Chúng uống rượu cả bầu, xức dầu thơm hảo hạng, nhưng chẳng biết đau lòng trước cảnh nhà Giuse sụp đổ !” (Am 6,1-6).

Ước mong sao sẽ có một ngày Giáo Hội Công Giáo tại Việt Nam chiếm lại được thế thượng phong trong cuộc chiến với “ma quỷ, thế gian và xác thịt” mà người đại diện hiện nay tại Việt Nam chính là chính quyền Cộng Sản. Amen.

Chú thích
[1] HC “Giáo hội trong thế giới hôm nay”, số 1, phần Nhập Đề.
[2] Sắc chỉ của Đức Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI bổ nhiệm Đức Tổng Giám mục Phó Hà Nội
[3] Tòa Khâm sứ, đất giáo xứ Thái Hà, đồi Thánh giá Đồng Chiêm, Nhà thờ Tam Tòa…
[4] Vụ án 2 luật sư Nguyễn Văn Đài và Lê thị Công Nhân, các vụ án khác dành cho các nhà tranh đấu Dân Chủ như Trần Khải Thanh Thủy, Trần Anh Kim, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung, Vũ Cao Quận…
[5] “Ðịch lợi dụng tôn giáo” (Ban Dân Tộc-Tôn giáo tỉnh Lào Cai)
[6] Quan điểm của Hội đồng Giám mục Việt Nam về một số vấn đề trong hoàn cảnh hiện nay do Đức cha Chủ tịch Phêrô Nguyễn Văn Nhơn ký ngày 25-09-2008 tại Xuân Lộc.
[7] Diễn từ chúc mừng của Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Phó chủ tịch HĐGMVN nhân ngày Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn ra mắt cộng đoàn Dân Chúa tại Nhà thờ chính toà Hà Nội, 07-05-2010
[8] Tài liệu đã dẫn ở số 6
[9] Tài liệu mật CSVN: ”Phải làm cho dân chúng vừa yêu vừa sợ”

Trần Đoan Hùng
VietCatholic News (19 May 2010 07:52)

May 18, 2010

Xin hãy giữ vững cây gậy mục tử

Filed under: Vietnam — tdnl @ 6:29 am

Nguyễn Văn Lục

Mới đây, tôi có dịp đọc lại một bài báo trên tờ La Presse, Montréal, ngày thứ sáu tháng tư, 2009 của linh mục Raymond Gravel thuộc giáo xứ Épiphanie, giáo phận Joliette với một nhan đề khá gay gắt: Messieurs les évêques: taisez-vous! (Các vị giám mục, xin các ngài im miệng lại.)

Linh mục Raymond Gravel muốn nhắc đến thảm trạng trẻ em bị sách nhiễu tình dục bởi một số chức sắc Thiên Chúa Giáo trong các địa phận như ở Boston, Hoa Kỳ hay ở Ái Nhĩ Lan (Ireland) mới đây.

Đây là một thứ scandal mà hầu hết các trường hợp xảy ra đều bị giáo hội che dấu. Rất ít thủ phạm bị trừng phạt. Và nó đã gây ra một phản ứng dây chuyền nơi các nhà thờ ở Ireland. Giáo Hoàng Benedict đành gửi thư bày tỏ sự xin lỗi công khai và xám hối. Thư sám hối đã được đọc ở tất cả các nhà thờ ở Ireland.

Nhưng mặc dầu có những lời sám hối chính thức như thế, nó cũng không đủ làm nguội và dập tắt được dư luận. Bởi vì hơn ai hết đáng lẽ Giáo Hôi phải chứng tỏ họ là chứng nhân của công lý, là lương tri của nhân loại đi trước và đứng trên cả pháp luật mới phải.

Giáo hội nói chung đã không làm nổi điều đó.

Nay Vatican trở thành tâm điểm cho những khủng hoảng niềm tin và quyền lực. Rất có thể nó đánh dấu một thời kỳ đen tối của giáo quyền La Mã!

Trong khi đó tại Việt Nam, giám mục Nguyễn Văn Khảm của tổng giáo phận Sài Gòn cũng như Hội đồng Giám mục lại bày tỏ một thái độ tiêu cực, bài bác các dư luận chống đối và tự coi Giáo hội mẹ là nạn nhân của dư luận bất công.

Được hỏi về vấn đề này trong dịp sang Mỹ tháng 3 vừa qua, giám mục Nguyễn Văn Khải đã trả lời một cách rất thiếu ý thức trách nhiệm đạo đức cũng như khôn ngoan, giám mục nói,

Ở đây tôi chỉ muốn nói đến một điều là sức sống của giáo hội. Hình như các phương tiện truyền thông thích nói đến chuyện tiêu cực trong giáo hội Hoa Kỳ như vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em…và hình như phải làm rùm beng những chuyện đó thì mới thu hút người xem và người nghe. Nhưng có bao điều tích cực khác mà chúng ta không để ý đến”.

Thế nào là thích nói thế nào là rùm beng? Thế nào là dư luận bất công? Thích nói hay phải nói? Đọc lời tuyên bố trên, người viết đâm nghi ngờ những bài giảng của giám mục Khảm lúc còn là linh mục.

Tiếp đến khi được phỏng vấn về sự hiện diện của Hồng Y Phạm Minh Mẫn tại buổi lễ ở LA, Gíám mục Khảm vận dụng thánh kinh nhắc lại lời Chúa trong câu: Nước của tôi không thuộc thế gian này. Vì thế Chúa có đến trần gian này để làm chính trị đâu.

Đồng ý Chúa có thể không làm chính trị. Nhưng phần các lãnh đạo Thiên Chúa Giáo ở Việt Nam thì chẳng những làm chính trị mà còn làm thứ chinh trị dấu mặt. Thứ chính trị theo đuôi và bợ đỡ.

Giám mục Nguyễn Văn Khảm viết Hồng Y Phạm Minh Mẫn sang Mỹ để “chủ sự một buổi lễ tôn giáo, để bày tỏ và củng cố sự hiệp thông giữa hai tổng giáo phận LA và Sàigòn cũng như mối hiệp thông giữa cộng đồng Thiên Chúa Giáo Việt Nam Hải ngoại và giáo hội tại quê nhà.

Nhìn thực tế thì tôi không thấy Hồng Y có khả năng để tạo dựng bất cứ một mối Hiệp Thông nào? Sự hiện diện của ngài gây rối ren và khó chịu tạo thành một dư luận phản kháng của nhiều người.

Nhiều hội đoàn trong Thiên Chúa Giáo đến ngoài Thiên Chúa Giáo đã lập ra Ủy Ban Phản kháng sự hiện diện của Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Thêm vào đó là những thông cáo mập mờ của ban tổ chức buổi lễ để đánh lừa dư luận.

Người ta có cảm tưởng bằng mọi cách làm thế nào để Hồng y giáo chủ phải có mặt.

Giáo dân sẽ không dàn chào áp lực phản đối kiểu Nguyễn Tấn Dũng hay Nguyễn Minh Triết. Tuy nhiên điều dó không có nghĩa là Hồng y giáo chủ có đủ lý do để có mặt.

Đối với đa số những giáo dân cho rằng sự có mặt hay không có mặt của vị Hồng y không mấy quan trọng cho bằng sự phủ nhận vai trò chủ chiên ở trong ý thức của mỗi người.

Hồng y giáo chủ không còn có trong mắt của giáo dân hải ngoại nữa.

Sự phủ nhận ấy cho thấy vai trò chủ chiên không có chỗ đứng trong cộng đồng tín hữu hải ngoại nữa. Và sau buổi lễ, vị Hồng Y biến mất không biết đi đâu, làm gì. Cung cách hành xử như thế đã hẳn không phải cung cách của một người chủ chiên nữa.

Rõ ràng chỗ của ông không phải ở California, nhưng ở giữa những cộng đồng giáo dân đang gặp những cơn thử thách với nhà cầm quyền cộng sản.

Chỗ cần có mặt, cần đến thì lại không đến, chỗ không cần thì lại có mặt. Vai trò mục tử đối với đoàn chiên đã không làm trọn vẹn.

Ước gì tôi thấy được ngài Hồng Y giáo chủ, chống gậy mục tử đi hàng đầu, đứng giữa đám đông người thiên chúa giáo ở Thái Hà, ở Đồng Chiêm thay vì ở LA.

Tôi cũng ước gì giám mục Nguyễn Văn Khảm, thay vì chỉ thuyết giảng xuông, hãy nói lên tiếng nói của giáo dân Thái Hà, Đồng Chiêm.

Chỗ của các Hồng y, GIám mục – chỗ của mục tử – không phải ở Mỹ mà ở giữa đoàn chiên giáo dân đang bị sách nhiễu trong nước.

Phần Hội Đồng giám mục trong nước tạo ra những xôn xao, những tin đồn đủ loại. Ông Giám mục này từ Mỹ Tho sẽ về Sai Gòn, ông giám mục ở Sài Gòn kia sẽ thay thế chỗ của Tổng Giám mục Kiệt. Có sự trao đổi, mặc cả. Mặc cả thế nào không ai biết. Hư thật bao nhiêu cũng không rõ.

Rồi đùng một cái, Giám mục Kiệt từ giã Roma về lại Hà Nội trước sự ngạc nhiên của mọi người, vượt ra khỏi những tiên đoán, tin đồn.

Mong là từ nay, những việc bổ nhiệm giữ được tính cách trang nghiêm, thuần túy tôn giáo và không phải một cuộc đổi chác , mặc cả, đi đêm với chính quyền cộng sản.

Họ đã tha hóa quyền bính giáo hội thành những chức tước đầy tính cách trần thế và vật chất. Cho ai thì người đó được.

Và nếu không giữ được sự thuần khiết tôn giáo để rơi vào những manh múng cá nhân, những toan tính thế tục với danh vọng quyền lợi thì đó là dấu hiệu bi đát nhất của Hội Đồng Giám mục Việt Nam.

Đã có một số linh mục quốc doanh và còn lại 26 giám mục ai sẽ là giám mục quốc doanh?

Tình trạng ấy đã từng xảy ra, đã từng có những vị phá rào, đã từng có vị ra sách mà tiêu biểu là cuốn Bước Đường hành hương, hai tập, dày 710 trang mà ai đọc cũng phải sượng sùng.

Viết như thế là tự hạ thấp mình, tự bôi tro chát chấu vào mặt nhau để họ coi thường tất cả.

Phần người viết bài này, đã quá thấu hiểu những thứ ngôn ngữ hai mặt, ngôn ngữ dấu mặt che đậy hay ngôn ngữ úp úp mở mở trong các Thư Chung.

Đó là những lá thư chung nội dung kêu, rỗng tuếch và vô nghĩa. Nó không phản ánh tâm tư, nguyện vọng của người Thiên Chúa Giáo. Nó cũng không hỗ trợ cho những đòi hỏi nhân danh quyền tự do tín ngưỡng hay quyền lợi của giáo dân Thiên Chúa Giáo.

Họa hiếm tôi mới đọc đọc được lá thư của Hội đồng giám mục gửi đến lãnh đạo chính quyền ngày 14-06-1991 trong đó có một vài điểm lên tiếng tích cực như: không được đồng hóa tổ quốc với xã hội chủ nghĩa và quyền tự do tôn giáo. Nhà nước không trả lời.

Thế là xong, đâu lại vào đấy.

Cho nên tôi rất lấy làm ái ngại cho những ai cứ dùng Thánh Kinh, lời Chúa để biện hộ cho những hành vi của mình.

Chúa có thể không làm chính trị, nhưng việc làm của Hồng Y và thái độ của một số giám mục hiện nay thì không giống Chúa.

Đã đến lúc cần một sự thẳng thắn và minh bạch. Đừng mang Chúa ra làm tấm bình phong che đậy nữa. Các hàng giám mục vẫn núp sau những lá chắn như các thư Mục Vụ, Thư Chung, Ngỏ lời với Giáo Dân. Như mới đây Thư Chung HĐGMVN kỳ 1/2010 gửi Cộng Đồng dân Chúa. Nhưng tôi có cảm tưởng Hội Đồng Giám Mục chọn lựa, cân nhắc từng câu từng chữ mà mục đích chính không phải để gửi cho giáo dân đọc mà để cho cấp lãnh đạo đọc.

Nội dung lá thư chung của Hội đồng giám mục viết được một câu ám chỉ xa xôi thế này:

Giáo Hội của Chúa ở khắp nơi cũng như trên quê hương đất nước chúng ta vẫn phải đối diện với nhiều khó khăn thử thách xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.”

Viết như thế là viết huề cả làng, năm nào cũng có thể sẽ viết lại như thế và tái diễn những câu chung chung vô tội vạ ấy. Năm sau lại tiếp tục còn những khó khăn, lại còn thử thách. Nhưng không một ai biết đó là khó khăn gì, thử thách gì.

Viết mà né, viết mà ngại úp úp mở mở. Nó thể hiện cái điều tệ hại nhất của con người sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa là sự sợ hãi.

Tôi tố cáo lên ở đây những thái độ ngụy tín [mauvaise foi] của những lá thư ấy và thấy thà không có chúng còn hơn.

Thà quý vị im lặng. Có cần tôi nhắc lại câu nói của linh mục Raymond Gravel trích dẫn ở đầu bài viết không?

Phải xóa đi cái đạo đức giả nhân danh những ngôn từ vốn không thực, vốn chỉ là bánh vẽ.

Cái tồi tệ nhất là sau mấy ngày họp hành, nghỉ ngơi của hội đồng giám mục, 26 vị tin tưởng và hân hoan thơi thới ra về vì tưởng rằng đã chu toàn trách nhiệm chủ chiên, đã nói lên được những “bức xúc” của Hội Đồng.

Ai trong số 26 vị lúc ký vào Thư Chung khi ra về còn nhớ được nội dung Lá thư chung ấy viết gì? Tác dụng của những lá thư chung đó đi đến đâu?

Quý vị đã quá ngây thơ khi xử dụng cái double language, ngôn ngữ hai mặt, thứ ngôn ngữ chung chung, ngoại giao, không chết ai cả.

Tôi gọi chúng là thứ “poisonous writing”, tự đánh lừa mình và đánh lừa người khác.

Và lúc nào cũng tự tạo cho mình một ảo tưởng là đã làm trọn sứ mệnh thiên chức được giao phó.

Và nếu chỉ nói giới hạn trong vòng hơn 30 năm qua, Hội đồng Giám mục đã không làm trọn nhiệm vụ chủ chiên của mình. Cây gậy chủ chiên nhiều lúc biến thành cây gậy ăn mày.

Chẳng hạn khi Hồng Y Phạm Minh Mẫn kêu gọi đối thoại và hòa giải với chính quyền cộng sản thì quả thực là tự lừa dối chính mình.

Trong hơn 30 năm qua, bất cứ cá nhân nào, đoàn thể nào hay tôn giáo nào còn hy vọng hão huyền là có thể đối thoại với chính quyền cộng sản là tham gia vào quá trình tự hủy hoại, tự lệ thuộc chính mình và tôn giáo mình.

Tự nó chế độ cộng sản là một điều xấu tự thân mà cố giám mục Phao lồ Lê Đắc Trọng để lại như sau, Communis-mus est intrinsere malus. (Cộng sản bản chất của nó là xấu.)

Câu này và câu nói của TT Nguyễn Văn Thiệu, xin tạc vào bia đá. Không xin ghi tạc vào đầu mỗi người để nhớ. Và tôi xin được phép ghi thêm câu nói của Lm Paul Deslierres, giáo sư linh hướng của 15 vị giám mục hiện nay khi các vị còn ngồi ghế nhà trường Giáo Hoàng Học Viện Piô 10, Đà Lạt mà tôi có nhiều dịp thảo luận với ngài về cộng sản. Tôi đã có lần hỏi ngài điều gì tồi tệ nhất trong một chế độ cộng sản?

Ngài nói văn tắt, đơn sơ và buồn bã là:

Điều tồi tệ nhất của người cộng sản là họ đã đánh mất cái hồn của một dân tộc.

Tôi nghĩ trong ba câu kể trên, câu nhận xét của Lm Paul Deslierres là thấm thía và sâu xa nhất. Xin gửi đến Gm Nhơn, Gm Oanh mà cha Paul Deslierres thường nhắc đến các học trò của ngài trong sự hân hoan, hãnh diện và quý mến.

Cho nên ta đừng hy vọng bất cứ điều gì nơi họ (cộng sản). Thưa Hồng y giáo chủ. Thưa các giám mục, thưa 15 vị học trò cha Paul Deslierres.

Hồng Y Mẫn hãy chứng minh là từ hơn 30 năm nay, chỉ kể từ sau 1975, giáo hội đã hòa giải được gì, đã đối thoại được gì với cộng sản, đã đạt được những thỏa thuận gì với cộng sản? Tất cả những thứ mà quý vị nhận được thật sự chỉ là những thứ mà quý vị đã đánh mất vào tay họ nay đòi lại cũng không xong.

Sự mất còn ấy nói sao cho vừa, cho đủ.

Phần tôi chỉ thấy sau 1975, giáo hội thiên chúa giáo như một số tôn giáo khác cũng đã gẫy thành nhiều mảnh, phân tán, chia lìa, và tự mỗi cá nhân tìm cho mình một con đường sống.

Xin ghi lại câu nhận xét phũ phàng ngay từ những ngày đầu tháng 7 năm 1975:
Thiên Chúa Giáo Việt Nam trong lòng chế độ cho thấy: Giáo hội miền Nam là giáo hội tư sản, nặng tinh thần thế tục, lòng đạo từ giám mục trở xuống thiếu chuẩn bị trở thành sa sút nên không có lập trường vững chắc như miền Bắc. Khi cộng sản vô đã vội vàng chấp nhận hoan hô, không phải để bảo vệ đức tin hay tinh thần cộng đồng Vatican cho bằng vì sợ khó khăn, sợ mất của, sợ tù đầy và sợ chết.

Nhận xét này không phải từ cố giám mục Lê Đắc Trọng mà của một giáo dân, một trí thức miền Nam viết cách đây hơn 30 năm.

Đã có một lá thư chung nào bày tỏ công khai, cụ thể về từng trường hợp, hay lên tiếng bênh vực những bất hạnh mà thiên chúa giáo đã phải lãnh chịu từ năm 1975 chưa?

Hay là sự im lặng chịu đựng, nếu không nói là đồng lõa. Một sự im lặng đồng nghĩa với sự “khôn ngoan” của con cái thế gian. Hãy nghe Mai Chí Thọ dằn mặt các giáo sĩ:

Nếu các quý vị không đi với chúng tôi thì có nghĩa là các vị không thể đoàn kết với chúng tôi, mà cũng có nghĩa là chống chúng tôi, không thể có nghĩa nào khác.”

Thế là quý vị “rét” co rúm lại.

Cái quan hệ giữa hàng giáo phẩm với chính quyền trồi sụt, đôi khi là thứ quan hệ đóng băng bất đắc dĩ và phải qua trung gian bọn tay sai của cộng sản là Ủy Ban Đoàn Kết như Huỳnh Công Minh.

Mỗi lần cái quan hệ đóng băng ấy trở thành bi kịch thì lại chỉ có tiếng nói đơn độc, tiếng nói cá nhân của một tu sĩ lên tiếng.

Đó là những tiếng kêu giữa sa mạc?

Thoạt kỳ thủy là tiếng nói bất khuất của Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền.


TGM Nguyễn Kim Điền (1921-1988)
Nguồn: vietcatholic.net

Đó là tiếng nói của lương tri, bất khoan nhượng. Ngày 3-7-1986, tổng giám mục Nguyễn Kim Điền đã gửi thư cho nhà nước cộng sản Hà Nội như sau:

Tôi sử dụng quyền làm người khi viết thư, đưa bản tin. Tôi thi hành nhiệm vụ tôn giáo giám mục khi gửi thư thăm Giáo Hoàng và cho Ngài một số tin tức tôn giáo trong phạm vi trách nhiệm. Và tôi rất lấy làm vinh dự nhận lãnh tất cả biện pháp xử lý vì tôn giáo, vì nhân quyền. (…) Tù ngục và chết chóc, chủ chăn của anh chị em hôm nay sẵn sàng và vui lòng đón nhận như phần thưởng Chúa ban sau 25 năm làm giám mục và 22 năm được phục vụ giáo phận Huế.” (Thư viết ngày 19-10-1985).

Và căn dặn giáo dân:
Khi tôi bị bắt rồi thì anh chị em đừng ai tin lời khai nào, dù có kèm theo chữ ký mà người ta kể là của chính tôi.”

Không ai bắt các quý vị phải lên tiếng, nhưng đã có một ai có đủ can đảm đứng chung hàng ngũ với Tổng giám mục Nguyễn Kim Điền.

Phải nghĩ lại điều này để tự xét mình.

Chỉ khi nào quý vị không sợ tù ngục, không sợ mất quyền lợi, chỉ khi nào quý vị vị can đảm chấp nhận hy sinh thì tiếng nói của qúy vị mới là tiếng nói của một mục tử tốt lành vì con chiên của mình.

Sau 1975, xin quý vị đừng mau quên. Hãy nhớ lại giáo Hội nói chung của miền Nam gặp biết bao kiếp nạn mặc dầu với một tổng giám mục Nguyễn Văn Bình cởi mở và chấp nhận hợp tác với chính quyền mới.

Bọn họ chỉ lợi dụng tổng giám mục Bình và tiến hành triệt đề xiết chặt, bóp nghẹt Thiên Chúa Giáo.

Chưa đầy một tuần sau 30 tháng tư, 1975, TGM Nguyễn Văn Bình gửi tâm thư kêu gọi giáo dân phải hòa mình vào nhịp sống mới cũng trong tinh thần hòa hợp hòa giải:

Một trang sử mới đã mở ra cho dân tộc Việt Nam. Đây là một niềm vui chung của cả dân tôc. (…) Hơn mọi lúc, giờ đây người thiên chúa giáo phải hòa mình vào nhịp sống của toàn dân, đi sâu vào lòng dân tộc.

Gaudium et Spes. Anh em ơi. Hãy vui mừng.

Vui mừng đâu chưa thấy, chỉ thấy tai ương đổ xuống cho giáo hội miền Nam.

• Ngày 1-6-1975 : Trục xuất khâm sứ tòa thánh

• Ngày 15-8-1975, trục xuất giám mục Nguyễn Văn Thuận ra khỏi Saì Gòn, sau đó biệt giam và chuyển ra Bắc, bị tù 13 năm trong đó có 9 năm biệt giam, được thả ngày 23-11-1988.

• Các chủng viện bị đóng cửa đồng loạt, bị giải tán và cơ sở thì bị trưng dụng.

• Cũng ngày thứ sáu 15-8-1975, trục xuất giám mục Paul Seitz, tác giả cuốn Le temps des chiens muets. (Thời của những con chó câm), địa phận Kon Tum ra khỏi Việt Nam. Ai là những con chó câm đây? Có quý vị nào trong Hội đồng giám mục viết được một cuốn sách có tính cách phản kháng?

• Ngày 7-7-1976, trục xuất các linh mục Dòng Tên ra khỏi Việt Nam, đóng cửa Giáo Hoàng Học viện Piô X, trong đó có Lm Paul Delierres, hiện nay 90 tuổi, ở Montréal, Canada. Giáo Hoàng Học viện là nơi đã đào tạo cho Việt Nam 16 giám mục hiện nay (một đã qua đời) đã xuất thân từ đấy.

• Ngày 7-10-1975, tất cả các trường thiên chúa giáo đồng loạt bị tịch thu hoặc “tự hiến” cho nhà nước.

• Ngày 12-2-1976 vụ nhà thờ Vinh Sơn với linh mục Nguyễn Quang Minh.

• Ngày 20-5-1987 đến lượt dòng Đồng Công ở Tam Hà, Thủ Đức.

• Toàn bộ các tuyên úy quân đội bị đi học tập cải tạo và khi được thả về nhiều vị sống vất vả, vất vưởng. Giám mục nào là người trách nhiệm lo cho họ?

• Toàn bộ các dòng nữ tu bị giải thể hoặc không có điều kiện vật chất để tồn tại.

• Nhiều linh mục đã chết trong tù như quý Lm Hoàng Quỳnh, Trần Phương Phi, Nguyễn Văn Vàng, Vũ Khánh Tường.


mạnh dạn chỉ ra những kẻ phản bội đàn chiên
Nguồn: mondes-normands.fr

Mất mát quá nhiều. Nào ai đã lên tiếng, mà nay đòi đối thoại? Đối thoại kiểu gì?

Trong các năm từ 1980-1990 là tiếng nói bất khuất của Nguyễn Ngọc Lan và Chân Tín.

Cuối tháng 11, năm 2000, đến lượt các linh mục Nguyễn Văn Lý, Phạm Văn Lợi vào cuộc với bản Tuyên ngôn về thực trạng thiên chúa giáo tại giáo phận Huế.

Chưa bao giờ có tiếng nói can đảm và quyết liệt của Hội Đồng Giám Mục. Đừng biến Hội đồng giám mục là một hội đồng chuột nói bằng thứ ngôn ngữ poisonous writing.

Hiện nay còn cho thấy chiều hường HĐGM ngày càng trở nên khiếp nhược, mềm yếu và bất lực.

Giáo hội Việt Nam nay bị thử thách không hẳn vì do cộng sản chèn ép, đè nén mà còn do các vị mục tử đã không làm trọn vai trò chủ chiên của mình.

Chỉ sợ họ sẽ không đại diện cho tiếng nói giáo dân mà đại diện cho chính quyền bạo lực cộng sản.

Cầu mong chúng ta có được những mục tử giữ được xứng đáng cây gậy mục tử của mình. Muốn thế, cần nhất loạt lên tiếng, cần mạnh dạn chỉ ra những kẻ phản bội đàn chiên.

© DCVOnline
http://www.dcvonline.net/php/modules.php?name=News&file=article&sid=7347

May 16, 2010

Sự Cố Phạm Minh Mẫn

Filed under: Vietnam — tdnl @ 3:17 am

Thiên Hạ Sự

“Sự cố” là từ của đàn anh đại hán; đàn em, con cháu của Hồ Chí Minh nhập khẩu vào Việt Nam qua ngả Ba Đình Hà Nội. Tiếng ta gọi là trở ngại, bất thường… ai cũng biết, cũng hiểu…

Gọi là “sự cố” vì sự việc xảy ra ngoài ý muốn của mọi người: giáo hội, giáo dân, người Việt trong và ngoài nước, quan chức đứng sau lưng… và ngay cả cá nhân ông Phạm Minh Mẫn!

Người viết không dám ghi tước hiệu “Hồng Y” sau từ “sự cố” và trước tên Phạm Minh Mẫn vì làm như vậy là bất công: Bất công đối với Giáo Hội Công Giáo Việt Nam vì Giáo Hội đâu phải chỉ gồm ông Hồng Y và hơn ba mươi ông Giám Mục mà là tập thể hơn bảy triệu giáo dân, giáo sĩ, tu sĩ, đại đa số sống đời sống xứng đáng, tốt lành. Sự cố này chỉ liên quan đến cá nhân ông Phạm Minh Mẫn, tứ nhân ban của Tổng Giáo Phận Sàigòn, Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo và một nhóm nhỏ quan chức đạo đời đang chỉ đạo Tổng Giáo Phận! Thiên Hạ Sự tui không có ý bât kính đối với các phẩm trật trong Giáo hội, dù lớn hay nhỏ.

Từ ngày Sự Cố Phạm Minh Mẫn xảy ra – mùa hè 2008, trước ngày Đại Hội Giới Trẻ Công Giáo Thế giới ở Úc — vận không may cứ tiếp tục “đồng hành” với Hồng Y Phạm Minh Mẫn như hình với bóng. Các nơi mời Hồng Y Mẫn chủ tế trong các buổi lễ đại trào long trọng nối tiếp nhau “hủy bỏ” lời mời vì không muốn rước “cái xui” đến nhà mình: Ban Tổ Chức ngày Đức Mẹ La Vang 2008 ở Washington, D.C., Ban Tố Chức Ngày Thánh Mẫu 2008 của Chi Dòng Đồng Công ở bang Missouri… Sau đó, người ta không thấy Hồng Y Mẫn xuất hiện làm “mục vụ hải ngoại” (linh mục Nguyễn Hữu Lễ gọi là “mục vụ xin tiền;” Thiên Hạ Sự tui quen gọi nôm na là “công tác vắt sữa bò!” ) như những năm trước đó.

Để lâu cứt trâu hóa bùn. Những “cái đầu chỉ đạo” của Tổng Giáo Phận Sàigòn cầu mong như vậy. Sau gần hai năm, im hơi lặng tiếng, bộ tham mưu của Hồng Y Mẫn lại thử thời vận đưa con mồi đi trình làng với sự cộng tác của linh mục Nguyễn Trường Luân thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam ở Hoa Kỳ: Mời Hồng Y Mẫn chủ tế lễ đại trào trong dịp Đại Hội Lòng Thương Xót Chúa ở Long Beach vào ngày 11 tháng 4 năm 2010. Nhớ lại ba năm trước, cũng tháng 4-2007, sự hiện diện của hai giám mục Việt Nam đã gây huyên náo tiểu bang có đông đảo người Mỹ gốc Việt này.

Cộng đồng Việt Nam ở Cali sau khi nghe tin đã đoàn kết và phản ứng nhanh chóng. Ngày 18-03-2010, đại diện các đoàn thể, tổ chức đã hợp nhau ở trụ sở Nguyệt San Diễn Đàn Giáo Dân ở Westminster, thành lập Ủy Ban Phản Kháng sự hiện diện của Hồng Y Phạm Minh Mẫn trong Cộng Đồng Người Việt tỵ nạn Cộng Sản, đồng thanh kêu gọi Ban Tổ Chức Đại Hội Lòng Thương Xót Chúa, Linh mục Nguyễn Trường Luân, xét lại lời mời Hồng Y Phạm Minh Mẫn. Ngày 22-03-2010, Ban Tổ Chức Đại Hội Lòng Thương Xót Chúa ra thông cáo buổi lễ sẽ do Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Los Angeles chủ tế. Như vậy sẽ không có Hồng Y Phạm Minh Mẫn tham dự!

Lần này, nhờ sự đoàn kết và phản ứng mạnh mẻ của Cộng Đồng Người Việt ở Cali, “sự cố Phạm Minh Mẫn” được giải quyết một cách thật ‘tốt đời, đẹp đạo!”

Người Việt Nam vốn “dễ tha thứ.” Nhưng có cái quên được, tha thứ được, có cái không, nhất là tánh bội ơn của những người ở vai trò lãnh đạo trước sự cùng khổ của quần chúng. Hơn 200,000 chiến sĩ quốc gia đã hy sinh bỏ mình bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng Hoà từ 1955-1975, bảo vệ tự do tôn giáo để tu sĩ các tôn giáo được hoãn quân dịch, bình an học tập ở các tu viện, chủng viện rồi đươc phong chức làm cha, làm thầy, làm sư… Lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của chính nghĩa tự do Việt Nam từ năm 1948, chống lại chế độ cộng sản bất nhơn tay sai Nga Tàu, giống như cây thánh giá là biểu tượng thiêng liêng của đạo Chúa. Sự cố Hồng Y Phạm Minh Mẫn gọi cờ vàng ba sọc đỏ là “thói đời mang tính đối kháng” năm 2008, và sự cố Việt Gian Cộng Sản đập phá Thánh Giá ở Đồi Chiêm 2010 xảy ra ở hai thời điểm khác nhau, nhưng có cùng một ý nghĩa: xúc phạm đến biểu tượng thiêng liêng, cao quý nhất của một tập thể to lớn. Hồng Y Phạm Minh Mẫn (và Hội Đồng Giám Mục Việt Nam!) không có một phản ứng gì trong vụ Đồng Chiêm cũng là điều dễ hiểu, vì Hồng Y Phạm Minh Mẫn đã đi bước trước với lá cờ chánh nghĩa quốc gia.

Trong một canh bạc, lá bài ngửa, dù vô tình hay cố ý, là lá bài cháy, không còn giá trị. Tứ nhân bang thành Hồ (đã chết một Trương Bá Cần, còn lại ba, gồm Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ và Vương Đình Bích), Uỷ Ban Đoàn Kết Công Giáo, và các bàn tay vô hình trong giáo tỉnh Sài Gòn… thật mưu mô xảo quyệt, áp dụng đúng sách lược dùng người của Hồ Chí Minh: vắt chanh bỏ vỏ!

Lá bài Phạm Minh Mẫn đã cháy! Năm nay Hồng Y Phạm Minh Mẫn cũng đến tuổi về hưu theo giáo luật (?). Cũng như người tiền nhiệm, Cố Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, có hay không có Hồng Y Phạm Minh Mẫn, sinh hoạt tôn giáo ở Tổng Giáo Phận Sàigòn vẫn không có gì khác, vẫn hòa nhập, hiệp thông, “đồng hành với dân tộc,” “sống đạo giữa lòng dân tôc.” Nhưng “dân tộc” gồm những ai? Ba triệu đảng viên CSVG và gia nô hay 85 triệu dân lành đang bị áp bức? Đó mới là vấn đề chánh yếu!

Hồng Y Phạm Minh Mẫn đáng được đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Gian ban thưởng huân chương cao quý Đoàn Kết Dân Tộc như cố Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, Giám Mục Bùi Tuần (giáo phận Long Xuyên) và Giám Mục Nguyễn Văn Sang (giáo phận Thái Bình) trước đây.

Thiên Hạ Sự

Next Page »

Blog at WordPress.com.